Thông tin giá cả thị trường tuần từ 07/07/2014 đến 11/07/2014

03:51 PM 07/07/2014 |   Lượt xem: 2576 |   In bài viết | 

TIÊU ĐIỂM

Đa dạng hóa thị trường: Vấn đề sống còn cho tiêu thụ hàng nông sản


Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Bộ NN&PTNT), 6 tháng đầu năm 2014, toàn ngành nông nghiệp xuất khẩu sản phẩm ước đạt 14,88 tỷ đô-la Mỹ, tăng 12,7% so với cùng kỳ năm 2013. Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp trong tháng 5 đạt 2,6 tỷ đô-la Mỹ và tháng 6 giảm khá mạnh, chỉ đạt 2,2 tỷ đô-la Mỹ.

Chủ động trước những khó khăn

Đáng chú ý, hiện nay nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam đang phụ thuộc khá nhiều vào thị trường Trung Quốc. Trong đó, lúa gạo, cao su, thị trường Trung Quốc chiếm khoảng 40% kim ngạch xuất khẩu, còn thanh long, vải, bột sắn, thị trường này chiếm 80 - 90%.

Trước thực trạng này, Bộ NN&PTNT cùng với Bộ Công Thương và các ngành liên quan, tích cực theo dõi sát sao diễn biến tình hình, đề xuất các giải pháp tháo gỡ, đẩy mạnh hỗ trợ cho doanh nghiệp tham gia hoạt động xúc tiến thương mại, tăng cường công tác thông tin, quảng bá nông lâm thủy sản đến người tiêu dùng ngoài nước thông qua các kênh thông tin - truyền thông trong và ngoài nước; tổ chức làm việc với các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài và các cơ quan chức năng của các quốc gia nhập khẩu để ký kết thỏa thuận hợp tác, gỡ bỏ rào cản, tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu.

Hiện, Trung Quốc hiện đang là thị trường xuất khẩu chính mặt hàng cao su và nhiều mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam. Nhưng thị trường này không ổn định, vì vậy việc tìm kiếm thị trường nhằm tháo gỡ khó khăn cho mặt hàng nông sản được Bộ NN&PTNT xác định là nhiệm vụ trọng tâm trong toàn ngành nông nghiệp trong thời gian tới. Bộ NN&PTNT đưa ra nhận định sẽ phải đưa ra giải pháp quyết liệt để tránh tình trạng hàng hóa khó khăn trong tiêu thụ, ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng chục triệu hộ nông dân cả nước.

Đẩy mạnh tái cơ cấu thị trường

Việc tái cơ cấu, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu hàng nông sản nói chung, đặc biệt là xuất khẩu gạo nói riêng là vấn đề mang tính sống còn hiện nay. Tuy nhiên, TS. Đặng Kim Sơn, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn cho rằng, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam quá chú tâm vào thị trường Trung Quốc, xao lãng các thị trường truyền thống… Do đó, cần làm tốt việc xúc tiến thương mại gắn với từng thị trường để tạo lập thương hiệu cho hạt gạo có giá trị cao nhất. Bên cạnh việc tăng thu nhập cho người trồng lúa, việc quan trọng là chúng ta luân canh đa dạng sản xuất nông nghiệp trên đất lúa có thể trồng các cây màu khác nhau. Để tăng thu nhập cho người dân ở khu vực nông thôn cần áp dụng các biện pháp tổng hợp, trong đó tái cơ cấu lại ngành sản xuất lúa gạo là một giải pháp quan trọng.

Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát cho biết, Bộ đã rà soát lại các thị trường và chỉ đạo các cơ quan chức năng phối hợp với các bộ, ngành có liên quan làm việc với các nước, để tháo gỡ những vướng mắc về kỹ thuật cũng như vận động các nước để mở cửa thị trường. Nhiều thị trường tiềm năng đang được Bộ NN&PTNT xúc tiến thương mại như Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga, Argentina...
Tại thị trường trong nước, Bộ NN&PTNT sẽ làm việc với các hiệp hội ngành hàng để làm rõ các khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp, đồng thời chỉ đạo các cơ quan chức năng cố gắng cao nhất để hỗ trợ, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh và đẩy mạnh xuất khẩu. Đối với sản xuất, Bộ cũng rà soát và thông tin cho các địa phương, nhân dân về tình hình thị trường để có sự điều chỉnh phù hợp về quy mô sản xuất.

Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hà Công Tuấn nhấn mạnh: “Định hướng của Bộ NN&PTNT: Câu chuyện sản xuất và xuất khẩu hàng loạt các sản phẩm nông sản giá rẻ, chưa qua chế biến, số lượng nhiều, từ nay sẽ có giải pháp quyết liệt thay bằng những mặt hàng nông sản chất lượng cao, đã qua chế biến giá cao và hướng tới những thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, châu Âu...”.
Đây là một trong những giải pháp hữu hiệu cho phát triển bền vững các mặt hàng nông sản, đẩy mạnh xuất khẩu và tránh phụ thuộc quá nhiều vào một thị trường.

box: Ông Cao Đức Phát, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: “Bên cạnh việc mở rộng thị trường, Bộ NN&PTNT đã đề xuất Chính phủ hỗ trợ nông dân một phần chi phí sản xuất và tăng cường phối hợp với các doanh nghiệp, hiệp hội để tăng tiêu thụ trong nước, đẩy mạnh tái cơ cấu thị trường. Đồng thời, Bộ cũng sẽ tập trung tái cơ cấu để nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm, cố gắng duy trì tăng trưởng ngành nông nghiệp đạt mục tiêu đề ra là 3% trong năm 2014”.


MUA GÌ


Miền Bắc: Vải thiều cuối vụ tăng giá nhẹ

Tại Lục Ngạn (tỉnh Bắc Giang) do đang ở cuối giai đoạn thu hoạch nên giá bán có tăng nhẹ so với cách đây khoảng một tuần lễ. Cụ thể, giá vải thiều từ 18.000 - 20.000 đồng/kg loại đẹp và 13.000 - 14.000 đồng/kg loại vừa. Trong khi đó, thương lái mua để đánh hàng đi miền Nam thì thường chọn loại xấu hơn, có giá từ 7.000 - 12.000 đồng/kg. Bà con trồng vải đều cho biết, hiện chưa ghi nhận khó khăn trong việc tiêu thụ trong thời gian vừa qua do đã vào cuối vụ, lượng hàng đã giảm dần.

Khánh Hòa: Mùa rong mơ thất thu

Rong mơ là loài rong biển có giá trị kinh tế cao hiện có nhiều nước thu mua và vùng biển miền Trung được đánh giá có trữ lượng rong mơ lớn nhất nước. Những năm gần đây, rong mơ ngày càng có giá trên thị trường nên được người dân sinh sống ven biển khai thác bán cho các cơ sở chế biến thực phẩm, dược phẩm... hoặc phơi khô để xuất khẩu sang nhiều nước, trong đó Trung Quốc chiếm đa phần. Hiện rong mơ rớt giá chỉ bằng 1/3 so với trước do phía Trung Quốc thu mua cầm chừng, rồi ép giá. Tại xã đảo Ninh Vân (thị xã Ninh Hòa), vào thời điểm này hằng năm giá rong mơ (đã phơi khô) được thu mua khoảng 10.000 đồng/kg thì nay mất giá, chỉ còn khoảng 3.000 đồng/kg rong khô nên bà con không hào hứng khai thác.

Gừng tươi bán được giá

Tại TP. Hồ Chí Minh chưa có năm nào giá gừng cao như năm nay. Trung tuần tháng 6 giá bán là 80.000 đồng/kg. Về nguyên nhân giá gừng tăng đột biến, do đây là mùa gừng trái vụ nên sản lượng không nhiều. Đồng thời, năm ngoái mưa bão nhiều, lượng gừng bị thối lớn nên sản lượng sụt giảm. Gừng thu hoạch được bao nhiêu, thương lái về tận vườn thu mua hết bán lại cho các Cty để xuất khẩu, cung không đủ cầu nên gừng càng được giá. Nguồn gừng tươi cung cấp cho TP. Hồ Chí Minh chủ yếu của các tỉnh Tây Nguyên như Đắk Lắk, Đắk Nông, Buôn Mê Thuột, Lâm Đồng và các tỉnh miền Tây, cộng thêm nguồn gừng của Trung Quốc. Riêng gừng của Trung Quốc hiện một số thương lái không mua nữa nên giá đẩy lên rất cao. Hiện nay người nông dân đang gặp khó khăn về khâu bảo quản sản phẩm sau thu hoạch. Đây là vấn đề mà nông dân trăn trở, rất mong ngành nông nghiệp quan tâm hơn nữa, hướng dẫn, chuyển giao quy trình kỹ thuật trồng, chăm sóc, bảo quản sản phẩm gừng sau thu hoạch để bà con áp dụng, nâng cao sản lượng, cũng như chất lượng gừng để hướng tới thị trường xuất khẩu. Hiện tại, sản phẩm gừng của Việt Nam đã xuất khẩu sang thị trường các nước như Lào, Campuchia, Malaysia, Bangladesh, Ấn Độ…

Sản lượng nuôi cá tra giảm do giá xuống thấp

Sản lượng cá tra của một số tỉnh giảm so với cùng kỳ năm ngoái, nguyên nhân chủ yếu do giá cá tra nguyên liệu các tháng trước thấp nên người nuôi cho ăn cầm chừng, kéo dài thời gian, cá không đạt kích cỡ thu hoạch. Theo Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, diện tích nuôi cá tra của các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long 6 tháng đầu năm ước đạt 9 5.800 héc-ta với sản lượng 489.000 tấn. Tại Vĩnh Long, vào thời điểm này giá cá tra giảm chỉ còn 21.500 - 22.000 đồng/kg, do Bộ Thương mại Hoa Kỳ vừa công bố tăng thuế chống bán phá giá lần thứ 9, bình quân mỗi mức thuế từ 0,42 - 1,2 đô-la Mỹ/kg, làm cho sản xuất cá tra càng khó khăn hơn. Bên cạnh đó, người nuôi không có cá để bán do ảnh hưởng của tình trạng giá thấp kéo dài trong những năm qua nên đa số bà con không mạnh dạn thả nuôi hoặc chuyển sang nuôi các loại thuỷ sản khác, trong khi những cơ sở đang nuôi thì lượng cá đạt kích cỡ thương phẩm để xuất bán không nhiều.

Tiền Giang: Mãng cầu xiêm và khóm rớt giá

Giá mãng cầu xiêm ở Tiền Giang đang rớt mạnh, hiện tại vườn chỉ còn 10.000 - 12.000 đồng/kg, giảm mạnh so với mức 22.000 đồng/kg vào đầu tháng. Theo các nhà vườn huyện Tân Phú Đông - vùng chuyên canh mãng cầu xiêm lớn nhất của tỉnh Tiền Giang, nguyên nhân do mãng cầu xiêm chín rộ quá nhiều sau những cơn mưa đầu mùa. Tương tự, tại huyện Tân Phước (Tiền Giang) - địa bàn có diện tích khóm (dứa) lớn nhất ĐBSCL với hơn 14.000 héc-ta, giá khóm hiện chỉ dao động ở mức 1.000 đồng/kg, giảm mạnh so với mức giá 3.000 - 3.500 đồng/kg cuối tháng trước, do đang vào thu hoạch vụ chính.

Giá mực khô xuống thấp

Nhiều mặt hàng hải sản giảm giá nhưng giảm trầm trọng là mực khô vì phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc. TP. Rạch Giá (Kiên Giang), mực khô loại 1 từ giá 515.000 đồng/kg cuối năm 2013 đã giảm xuống còn 350.000 đồng/kg hiện nay (giảm hơn 30%); mực loại 2 từ 310.000 đồng/kg còn 150.000 đồng/kg (gần 52%). Giá mực khô xuất khẩu giảm nên giá mực tươi tại cảng cũng giảm tương ứng. Tại huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau, giá mực khô ở cảng Sông Đốc cũng giảm khoảng 40%. Hồi đầu năm, các loại mực khô có giá trung bình 400.000 - 500.000 đồng/kg tùy kích cỡ, nay chỉ còn 200.000 - 300.000 đồng/kg.

BÁN GÌ


Nhập khẩu ngô tiếp tục tăng


Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong tháng 6 nước ta đã nhập khẩu khoảng 118.000 tấn ngô các loại với giá trị 31 triệu đô-la Mỹ, đưa khối lượng nhập khẩu mặt hàng này trong 6 tháng đầu năm đạt 2,33 triệu tấn, giá trị nhập khẩu khoảng 599 triệu đô-la Mỹ. So với cùng kỳ năm ngoái, lượng ngô nhập khẩu đã tăng 2,4 lần và tăng 87,1% về giá trị với các thị trường nhập khẩu chủ yếu từ Brazil, Ấn Độ.



Với mức nhập khẩu như các tháng đầu năm, dự kiến trong năm nay nước ta sẽ nhập khẩu trên 3 triệu tấn ngô. Theo các công ty sản xuất thức ăn chăn nuôi, lượng ngô nhập khẩu ngày càng tăng do nhu cầu sản xuất thức ăn chăn nuôi tiếp tục tăng và ngô thế giới đang rẻ hơn nhiều so với giá trong nước. Trong khi đó, thời tiết trong nước diễn biến bất thường với mùa nắng nóng kéo dài đã làm giảm thời gian xuống giống của cây ngô trong nước và ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng, phát triển của cây. Do đó, dự đoán năng suất cây ngô vụ xuân 2014 có thể bị sụt giảm so với những năm trước.
Ảnh: Ngô nhập khẩu tăng do nhu cầu sản xuất thức ăn chăn nuôi

Đồng Tháp: Giá bắp (ngô) khô giảm hơn 60% so với cùng kỳ



Hiện nay các hộ trồng bắp ở huyện Lấp Vò, Đồng Tháp đã bước vào mùa thu hoạch rộ, nhưng thương lái ít đến mua. Không bán được, nhiều hộ đành chuyển sang để bắp khô, nhưng giá bắp khô hiện tại chỉ còn ở mức 6.000 - 7.000 đồng/kg giảm 10.000 - 11.000 đồng/kg so với cùng kỳ năm 2013.



Trên thực tế, từ bắp tươi chuyển sang để bắp khô nông dân chịu thiệt rất nhiều. Thứ nhất, bắp tươi chỉ 75 ngày thu hoạch, bắp khô phải mất 105 ngày mới thu hoạch, sẽ gây ảnh hưởng đến sản xuất vụ sau. Thứ hai, nông dân phải đầu tư thêm 2,1 triệu đồng/công vì phải bón phân thêm 2 đợt, rồi thuê nhân công thu hoạch, tách hạt. Thứ ba, khi trồng bắp tươi chuyển sang lấy hạt thì còn mất khoảng 200.000 đồng vì không bán thân cây bắp tươi (làm thức ăn cho bò)”. Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Lấp Vò cũng cho biết, nguyên nhân giá bắp giảm là do thời điểm này một số địa phương khác cũng đang vào thu hoạch nên lượng cung vượt cầu.

Giá đường bắt đầu hồi phục

Theo Hiệp hội Mía đường, tổng sản lượng đường sản xuất trong niên vụ 2013/2014 ước đạt 1,6 triệu tấn đường, cao hơn cùng kỳ 6,2%. Sản lượng đường tiêu thụ cả nước lũy kế từ đầu năm đến tháng 5/2014 ước khoảng 900.000 tấn, cao hơn 16% cùng kỳ. Trong khi đó, lượng tồn kho đạt mức 678.000 tấn, ước cao hơn 20% cùng kỳ, trong đó 14.000 tấn đường tồn tại các doanh nghiệp thương mại. Hiện khoảng 64% lượng tồn tập trung tại các nhà máy sản xuất đường trắng (đường Rs), 30% đường luyện (RE) và 6% đường vàng/thô. Hiện nay, mặc dù sản lượng tiêu thụ đã được cải thiện nhưng nguồn cung vẫn tiếp tục gia tăng nên lượng tồn kho vẫn ở mức cao so với cùng kỳ. Tuy nhiên có 1 điều tích cực là giá đường nội địa đang có dấu hiệu hồi phục nhẹ trong quý II/2014 do yếu tố mùa vụ. Nhưng diện tích mía lại bị thu hẹp do lợi nhuận của người trồng mía giảm. Theo thống kê sơ bộ ở khu vực tỉnh Khánh Hòa, nơi có sản lượng đường lớn thứ 2 cả nước, tỷ lệ hộ trồng mía có lãi là dưới 20%. Giá thu mua mía tại khu vực này thời gian qua chỉ duy trì ở mức 900 đồng/kg, giảm 10% so với niên vụ trước do giá đường giảm mạnh kéo giá thu mua mía nguyên liệu cũng giảm theo. Tình trạng này cũng xảy ra tương tự cho các khu vực Bắc Trung Bộ, ĐBSCL. Theo tính toán của người trồng mía thì lợi nhuận thu về tương đương với chi phí bỏ ra nên họ dần chuyển sang trồng loại cây khác có lợi nhuận cao hơn. Do vậy, một số chuyên gia dự báo, giá đường nội địa sẽ cải thiện trong năm 2015 do nguồn cung niên vụ 2014/2015 dự báo giảm.

Cơ hội xuất khẩu của gạo Việt Nam

Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) cho biết, thời gian gần đây, các thị trường chuyển sang mua gạo Việt Nam do bất ổn chính trị tại Thái Lan. Cuối tháng 6, chính phủ Philippines cho biết sẽ nhập thêm 200.000 tấn gạo từ Việt Nam để bổ sung vào kho dự trữ quốc gia sau khi ký hợp đồng mua 800.000 tấn hồi tháng 4 năm nay. Việt Nam cũng vừa giành được hợp đồng xuất khẩu 200.000 tấn gạo 5% tấm sang Malaysia trong năm nay. Giá xuất khẩu là 410 đô-la Mỹ/tấn, sử dụng phương thức FOB. Đây là hợp đồng xuất khẩu gạo lớn nhất kể từ khi Việt Nam ký được hợp đồng xuất khẩu gạo sang Philippines hồi đầu năm nay. Mới đây nhất, Cơ quan Hậu cần Quốc gia (Bulog) của Indonesia đang chuẩn bị sẵn sàng nhập 500.000 tấn gạo để đáp ứng nhu cầu gia tăng trong nước. Năm nay Indonesia có thể sẽ phải nhập khẩu tới 1,5 triệu tấn gạo, cao hơn gấp đôi so với mức tương ứng 700.000 tấn năm 2013. Thái Lan và Việt Nam được đánh giá là hai nhà xuất khẩu có nhiều cơ hội trúng các gói thầu lớn này.

Chủng loại

Thị trường

Giá

Đường cát Biên Hòa

Cần Thơ

20.000

Đường RE

Hậu Giang

20.600

Đường RE (Biên Hòa)

Long An

19.000

Đường RE (Biên Hòa)

Cà Mau

20.500

Đường kết tinh trắng rời

Trà Vinh

16.000

LƯU Ý CẢNH BÁO

Để cây ngô phát triển bền vững

Việt Nam là nước nông nghiệp nhưng cho đến nay vẫn phải nhập một khối lượng ngô khá lớn. Vì vậy, chủ trương chuyển đổi một phần đất lúa sang trồng ngô là hoàn toàn phù hợp, qua đó đem lại thu nhập cao hơn cho nông dân. Tuy nhiên, để diện tích chuyển đổi mang tính bền vững thì cần có những giải pháp phù hợp, cách làm đúng để người dân yên tâm sản xuất.

Những thách thức đặt ra

Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đất trồng ngô đang chiếm một diện tích lớn với gần 588.000 héc-ta, bằng 50% diện tích cả nước. Trong đó các tỉnh Tây Nguyên là hơn 248.000 héc-ta và Bắc Trung Bộ hơn 125.000 héc-ta. Báo cáo của Cục Trồng trọt cũng cho thấy, ngô trồng vụ Đông sau đất lúa những năm gần đây lại có xu hướng giảm. Riêng khu vực Đồng bằng sông Hồng giảm trên 10.00 héc-ta, trung du miền núi phía Bắc giảm trên 5.000 héc-ta, khu vực Bắc Trung Bộ giảm gần 7.000 héc-ta. Nguyên nhân chủ yếu là do điều kiện thời tiết có nhiều biến động, sâu bệnh gia tăng khiến cho năng suất trung bình không cao, hiệu quả sản xuất kém nên nhiều hộ nông dân đã giảm diện tích canh tác. Bên cạnh đó, một thực tế cho thấy, mặc dù trong vòng 10 năm qua, diện tích, năng suất, sản lượng sản xuất ngô tăng liên tục nhưng Việt Nam vẫn phải nhập khẩu lượng lớn ngô để làm nguyên liệu thức ăn cho gia súc, gia cầm.

Trước những vấn đề đặt ra trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất, phát triển cây ngô gắn với chuyển đổi cây trồng, định hướng phát triển ngô toàn quốc đã xác định trong thời gian tới phấn đấu đạt 1,2 triệu héc-ta, năng suất 50 tạ/héc-ta, sản lượng 6 triệu tấn ngô hạt vào năm 2015 và đến 2020 đạt 1,44 triệu héc-ta, sản lượng ngô đạt 7,5 triệu tấn. Cùng với đó là đẩy mạnh chuyển đổi đất trồng lúa sang trồng ngô với chỉ tiêu đến 2015 chuyển 120.000 héc-ta đất lúa kém hiệu quả sang ngô và đến 2020 chuyển tiếp 183.000 héc-ta. Trong đó, các tỉnh phía Bắc chuyển đổi hơn 75.500 héc-ta đất lúa sang trồng ngô. Định hướng phát triển cây ngô ở các tỉnh phía Bắc là sản xuất ngô lai gắn kết chặt chẽ đồng bộ từ khâu sản xuất kỹ thuật về giống, canh tác, quy trình công nghệ, phơi sấy chế biến để nâng cao năng suất chất lượng và tăng giá trị sản xuất ngô lai.

Cần có cách làm phù hợp

Để làm được điều này, theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ các giải pháp như: Rà soát quy hoạch vùng sản xuất ngô tập trung hàng hóa lớn để dễ dàng cho cơ giới hóa đồng bộ, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để tăng năng suất, giảm giá thành; tiếp tục hoàn thiện quy hoạch vùng sản xuất ngô tập trung để đẩy mạnh thâm canh và cơ giới hóa sản xuất ngô.
Tại hội nghị Phát triển sản xuất ngô gắn với chuyển đổi cơ cấu cây trồng các tỉnh phía Bắc, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát nhấn mạnh: “Thời gian qua, nhiều công ty đưa ra các giống ngô cho năng suất cao tới 9 - 10 tấn/héc-ta, nhưng vì sao khi nông dân đưa ra sản xuất đại trà chỉ đạt 5 tấn/héc-ta? Rõ ràng nông dân vẫn chưa nắm vững kỹ thuật canh tác hiệu quả. Bằng mọi biện pháp phải giúp bà con trồng ngô có thu nhập cao hơn các cây trồng khác. Việt Nam phải nỗ lực để nâng cao nhanh hơn năng suất ngô so với các quốc gia trên thế giới, khi đó cây ngô mới có chỗ đứng vững chắc. Muốn đạt được điều đó cần đặc biệt chú trọng những vùng có điều kiện lợi thế về sản xuất ngô, thông qua các giải pháp về kỹ thuật, tổ chức quản lý, hướng dẫn bà con phát triển sản xuất chuyên nghiệp, quy mô gắn với chuyển đổi cơ cấu cây trồng hiệu quả”.

Theo ông Mai Xuân Triệu, Viện trưởng Viện Nghiên cứu ngô Việt Nam, chuyển đổi diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang trồng ngô là một trong những giải pháp nhằm thực hiện đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai gặp không ít khó khăn do nguồn đầu tư cho trồng ngô hiện vẫn cao hơn trồng lúa nên nông dân khó áp dụng đúng các quy chuẩn kỹ thuật. Đặc biệt, nông dân nhiều nơi chưa quen kỹ thuật sản xuất ngô trên đất lúa và thực tế ngô vẫn bị xem là cây thay thế cho các cây trồng khác ở mùa vụ và vùng đất khô hạn, khó tưới. Do đó, năng suất ngô chưa tương xứng với nguồn đầu tư, hỗ trợ.

Bên cạnh đó, ông Trần Xuân Định, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt khuyến cáo: “Chuyển đổi từ cây trồng khác sang ngô ở miền Bắc có hạn chế bởi quy mô sản xuất nhỏ, không có cường độ ánh sáng dồi dào do đó chỉ tiến hành chuyển đổi trên những chân đất cao, vùng nội đồng cấy lúa tốn kém nước hoặc trên đất bãi. Không thể đưa cây ngô vào vùng trũng hoặc vùng đất mà hiện tại các cây trồng khác đang cho hiệu quả kinh tế cao hơn”.

NHẬN ĐỊNH THỊ TRƯỜNG

Thừa Thiên – Huế: Doanh nghiệp hỗ trợ nông dân khi nông sản thừa ế

Được Công ty Tân Phú Quang (tỉnh Quảng Nam) hỗ trợ giống, vật tư và hợp đồng bao tiêu sản phẩm, nhiều hộ nông dân ở các xã: Phong Hiền, Điền Hương, Phong Chương, Điền Lộc (Phong Điền, Thừa Thiên - Huế) hăng hái trồng ớt cao sản.

Theo tính toán, trồng ớt cao sản hiệu quả kinh tế cao, có thể gấp 3 lần so với trồng lúa, đậu, rau màu. Giá 6.200 đồng/kg, bình quân mỗi sào thu 1,5 tấn bán được 9 - 10 triệu đồng, như vậy bình quân mỗi héc-ta thu nhập trên 180 triệu đồng. Tuy nhiên, vào vụ thu hoạch người dân lại lo lắng do không được đơn vị hợp đồng bao tiêu sản phẩm.

Theo Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) huyện Phong Điền, mới đây đại diện Công ty Tân Phú Quang có buổi làm việc với UBND huyện Phong Điền về việc giải quyết hỗ trợ cho người dân. Đại diện công ty nêu lý do thị trường biến động nên thương lái Trung Quốc không thu mua ớt cao sản nữa. Lý do khác là, quá nhiều địa phương trồng ớt nên mặt hàng nông sản này bị ứ đọng số lượng lớn. Vả lại, thời tiết ở Huế khắc nghiệt làm ớt bị hong khô không đảm bảo chất lượng. Tuy gặp khó khăn, nhưng công ty cũng đưa ra hai phương án bao tiêu sản phẩm cho người dân, là hỗ trợ 500.000 đồng/sào (10 triệu/héc-ta) và không thu tiền tạm ứng mua vật tư nông nghiệp, giống. Trong điều kiện khó khăn, biến động thất thường của thị trường, việc đưa ra các phương án thu mua sản phẩm như trên đã thể hiện sự thiện chí của doanh nghiệp. Đồng cảm, chia sẻ với những khó khăn của doanh nghiệp, bà con nông dân cũng chấp thuận phương án hỗ trợ 10 triệu đồng/héc-ta.

Từ sự kiện nêu trên, có thể thấy rằng việc chuyển đổi những diện tích cây trồng kém hiệu quả sang trồng ớt là một hướng đi phù hợp. Nhưng cây ớt cũng giống như nhiều loại nông sản khác cần được tính toán điểm bão hòa của thị trường để không phát triển tràn lan, thiếu quy hoạch. Doanh nghiệp cũng cần chủ động đa dạng hóa đầu ra, nếu không sẽ lặp lại một chuỗi phụ thuộc: Bà con trông vào doanh nghiệp, doanh nghiệp lại chỉ trông vào thị trường Trung Quốc. Đến khi có biến động thì thiệt hại không chỉ xảy ra cho riêng một bên nào.

Hà Giang: Cần sớm phát triển cây mận đỏ thành hàng hóa

Mận Chiến Phố (Hoàng Su Phì) vốn nổi tiếng bấy lâu về màu sắc, hương vị thơm ngon riêng biệt. Nhiều nhất và thơm ngon nhất trong các loài mận phải kể đến mận đỏ, tên dân gian là mận máu, hay còn gọi Chí Kháy Là (đỏ). Loài mận này thường chín vào đầu tháng 6 và chín rộ vào trung tuần tháng 6 đầu tháng 7. Khi chín, quả chuyển từ màu xanh sang sậm đỏ. Đang mùa vụ, trung bình bán rẻ cho thương lái, người trồng cũng thu được 20.000 đồng/kg.

Ước tính có hộ gia đình nhờ vườn mận thu được không dưới chục triệu đồng, bằng cả vụ thu hoạch ngô, đậu. Theo bà con cho biết, mận đỏ rất dễ trồng. Vào mùa mưa, chỉ cần đào cây con có sẵn trong vườn, cuốc hố vừa phải đặt cây mận xuống, lấp đất vào gốc cho chặt là được. Cây con trồng sau từ 3 đến 4 năm trồng là bắt đầu cho thu hái. Mận không kén đất, có thể trồng bất cứ chỗ nào trong vườn, ngay cả cạnh bờ rào cây mận vẫn phát triển và cho thu hoạch. Chính vì vậy, UBND huyện Hoàng Su Phì đang giao nhiệm vụ cho Phòng NN&PTNT khảo sát, đánh giá các loài cây ăn quả đặc sản nói chung và cây mận đỏ nói riêng để có hướng chỉ đạo đầu tư thích hợp. Trước mắt khảo sát, đánh giá cụ thể về khả năng trồng cây mận đỏ tại xã Chiến Phố, Bản Máy ngay trong năm nay. Tiếp tục khảo sát, đánh giá khả năng phát triển cây lê đường tại xã Thàng Tín, Pố Lồ, Bản Péo theo phương thức trồng thành vùng cây ăn quả đặc sản. Phấn đấu từ nay đến hết nhiệm kỳ Đại hội, năm 2015, xây dựng và phát triển bằng được một số cụm xã, làng bản có nghề, có hàng hóa, bằng các cây, con dựa trên thế mạnh từng vùng miền, từng địa phương. Trên cơ sở đánh giá, tổng kết vào cuối năm 2015, để làm tiền đề xây dựng và phát triển kinh tế hàng hóa gắn với nhu cầu thị trường vào năm 2016 và các năm tiếp theo.

Hướng đi này hứa hẹn trong một tương lai gần, cây mận đỏ và nhiều loại đặc sản quý khác của Hoàng Su Phì sẽ trở thành thương hiệu hàng hóa, đem lại sự phát triển bền vững cho bà con nơi đây.

CHUYỂN ĐỘNG THỊ TRƯỜNG


Hàng nông thủy sản xuất khẩu sẽ có thêm thị trường mới

Theo nhận định của Bộ NN&PTNT, thời gian tới, xuất khẩu nông sản sẽ khả quan hơn do tìm kiếm được thêm các thị trường mới đối với những mặt hàng nông sản chủ lực như lúa gạo, thủy sản, lâm sản.

Hiện Việt Nam đã đạt được những thỏa thuận để xuất hàng nông sản sang thị trường Argentina. Ngoài ra, Bộ NN&PTNT cũng đang cử các đoàn công tác sang Mỹ để tìm cách tháo gỡ khó khăn với cá tra do Luật Nông trại của Mỹ và đàm phán với phía Nga để mở cửa lại thị trường thủy sản tại nước này. Liên quan đến việc Trung Quốc sẽ tăng cường giám sát xuất nhập khẩu tiểu ngạch về thương mại, thậm chí có thể sẽ dừng giao thương nông sản tại một số cửa khẩu tiểu ngạch, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hà Công Tuấn cho rằng, nông sản xuất qua Trung Quốc chủ yếu bằng đường tiểu ngạch, nên tiềm ẩn nguy cơ không ổn định. Tuy nhiên đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc triển khai thực hiện điều này tại các cửa khẩu.

“Từ trước đến nay phía Trung Quốc đã thực hiện điều này nhiều lần và ở nhiều cửa khẩu. Ngành nông nghiệp sẽ thực hiện đúng theo quan điểm chỉ đạo của Trung ương về quan hệ giữa Việt Nam - Trung Quốc là quan hệ nhân dân, quan hệ về thương mại giữa Việt Nam – Trung Quốc là nhất quán. Trong lĩnh vực nông nghiệp, Bộ NN&PTNTsẽ bàn với phía Trung Quốc để hạn chế thấp những rủi ro đối với các mặt hàng nông sản”.



Hiện nay, tỷ lệ xuất khẩu các mặt hàng nông sản như lúa gạo, cao su sang thị trường Trung Quốc chiếm khoảng 40% kim ngạch xuất khẩu của các ngành hàng, riêng thanh long, bột sắn, thị phần ở thị trường này chiếm 80% - 90%.

Tuy An - Phú Yên: Phấn khởi vì được mùa cá cơm

Khoảng một tháng nay, nhiều ngư dân ở xã An Hải (huyện Tuy An, Phú Yên) được mùa cá cơm nên rất phấn khởi. Sau một đêm đi biển, thuyền khai thác ít nhất cũng được 20 kg cá, thuyền nhiều trên 100 kg nên ngư dân có thu nhập khá. Theo bà con ngư dân cho biết, chưa năm nào cá cơm săn nhiều như năm nay. Lưới dùng đánh bắt cá cơm là lưới lâm, mỗi thuyền khoảng 4 tấm, mỗi tấm dài hơn 10 mét, giá mỗi tấm lưới gần 1 triệu đồng. Vì đánh cách bờ khoảng 1 hải lý trở lại nên không tốn kém nhiều chi phí xăng dầu nhưng sản lượng đánh bắt lại đạt khá. Với giá cá hiện nay khoảng 45.000 đồng/kg, chỉ trong vài đêm, có gia đình thu được tiền triệu.

Theo UBND xã An Hải, dùng lưới lâm để đánh mắt cá cơm săn là công việc phụ của ngư dân và tự phát. Ban đầu tại xã chỉ có khoảng 70 hộ tham gia đánh bắt, nhưng nay tăng lên gần 100 hộ. Từ đầu tháng 6 đến nay, ngư dân xã An Hải đánh bắt được khoảng 7 tấn cá cơm.

Quảng Ngãi: Nguy cơ từ việc thu hoạch rau câu kiểu tận diệt

Cứ từ tháng giêng đến tháng 6 hàng năm, người dân ở quanh khu vực cầu Khê Hòa lại đổ xô đi vớt rau câu bán cho các thương lái ở Bình Định. Người dân ở một số tỉnh khác như Bình Định, Phú Yên cũng về đây khai thác loại rau này. Theo bà con ở đây cho biết tuy đây là nghề phụ nhưng lại cho thu nhập cao. Trung bình nếu mỗi ngày vớt được 1 tạ rau câu có thể kiếm được khoảng 500.000 đồng/ngày (4.500 - 5.000 đồng/kg). Nghề khai thác rau câu không khó, nhưng cần phải có sức khỏe để ngâm mình cả ngày dưới nước, chỉ cần một chiếc ghe nhỏ hoặc thúng là có thể hành nghề được.

Từ nhiều năm nay, nghề khai thác rau câu đã trở thành nghề “hái ra tiền” đối với nhiều người ở địa phương. Chính vì vậy có nhiều nông dân ở tận Bình Định cũng ra đây hành nghề mỗi khi tới mùa rau câu. Theo những bà con này cho biết thì ở Bình Định cũng nhiều rau câu nhưng quá đông người khai thác quá nên phải ra tận đây để hành nghề. Rau câu là loại rong biển giàu dinh dưỡng, thường được sử dụng để chế biến thực phẩm như thạch rau câu, canh rau câu được người tiêu dùng ưa chuộng. Đặc biệt là trong những ngày nắng nóng như hiện nay, rau câu được xem là loại thực phẩm giúp giải nhiệt rất tốt. Nghề khai thác rau câu đã và đang đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho nhiều người dân sống gần biển. Tuy nhiên, nếu việc khai thác diễn ra một cách rầm rộ như hiện nay thì nguy cơ cạn kiệt, tận diệt loại rau quý này là điều khó tránh khỏi.

HÀNG GIẢ HÀNG THẬT


Đường tinh luyện Biên Hòa

Đường Biên Hòa là một trong số những doanh nghiệp đang bị làm nhái, làm giả sản phẩm đường tinh luyện loại túi 1 kg và túi 500 gam. Đây là dòng sản phẩm được đánh giá cao về chất lượng, đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng.

Hàng giả, nhái sử dụng mẫu mã, bao bì cũ

Đường tinh luyện Biên Hòa được làm từ 100% mía đường tinh khiết, không sử dụng hóa chất tẩy trắng và được sản xuất trên dây chuyền hiện đại - công nghệ carbonat hóa tiên tiến giúp loại bỏ hết các tạp chất. Điều này giúp cho sản phẩm được tinh khiết, sạch, ngọt thanh tự nhiên, bổ dưỡng và an toàn cho sức khỏe. Đặc biệt, với công nghệ hiện đại, không sử dụng hóa chất tẩy trắng và hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008, hệ thống quản lý an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn HACCP, đường tinh luyện Biên Hòa Pure đã được loại bỏ hết các tạp chất, màu trắng tự nhiên, không biến màu trong quá trình sử dụng. Đây cũng là sản phẩm 100% mía đường tinh khiết, an toàn cho sức khỏe của mọi gia đình. Thời gian vừa qua, trên thị trường đã có nhiều sản phẩm đường đóng túi có bao bì tương đồng với bao bì đường tinh luyện Biên Hòa nhưng chất lượng kém. Đa số các cơ sở này thu mua đường giá rẻ không rõ nguồn gốc, không quan tâm đến chất lượng rồi đóng bao bì cũ của đường Biên Hòa. Số khác đặt in bao bì gia công nhái theo thương hiệu Biên Hòa, thậm chí làm giả rồi bán với giá thành thấp.
Chủ động thay đổi mẫu mã bao bì

Để tránh nhầm lẫn với giấy bao bì của nhiều loại đường đóng túi trên thị trường, Công ty cổ phần đường Biên Hòa đã chủ động thay đổi thiết kế bao bì sản phẩm, xây dựng hệ thống nhận diện thương hiệu mới. Toàn bộ bao bì của sản phẩm loại túi 1 kg và túi 500 gam cũ đã không còn được sử dụng và lưu thông trên thị trường. Thay vào đó là mẫu bao bì mới với màng nhựa phức hợp chuyên dùng để đóng gói thực phẩm, giúp bảo quản chất lượng sản phẩm tốt và an toàn trong quá trình vận chuyển. Sự thay đổi và cải tiến này đã được đông đảo người tiêu dùng đón nhận. Trong khi đó, một số cơ sở vẫn tiếp tục làm hàng nhái, hàng giả theo mẫu cũ của sản phẩm túi 1 kg và 500 gam.

Thời gian qua, Công ty cổ phần đường Biên Hòa đã phối hợp với cơ quan chức năng điều tra và xử lý nhiều vụ sản xuất hàng nhái, hàng giả sản phẩm. Tuy nhiên, công ty cũng khuyến cáo bà con không nên mua sản phẩm có mẫu bao bì cũ, hoặc những loại đường túi có thiết kế bao bì na ná mẫu cũ để bảo vệ sức khỏe của gia đình mình.

An Giang: Đa dạng mô hình đưa hàng Việt về nông thôn

Theo Sở Công Thương An Giang, trong năm 2014, nhiều hoạt động đổi mới hình thức đưa hàng Việt về nông thôn sẽ được triển khai nhằm tăng thị phần hàng Việt tại địa phương này, đặc biệt là các xã, huyện vùng giáp biên giới.

Bà con được dùng hàng Việt với chất lượng đảm bảo, giá hợp lý

Thống kê của Sở Công Thương tỉnh An Giang, sau 5 năm Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” được triển khai, An Giang đã tổ chức được 130 chuyến đưa hàng Việt về nông thôn với hình thức phiên chợ và bán hàng lưu động, doanh số bán hàng đạt hơn 15,3 tỷ đồng, khách đến tham quan và mua sắm khoảng 193.000 lượt người. Các chuyến đưa hàng Việt về nông thôn đã thực hiện tốt nhiệm vụ trong việc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp (DN) tham gia có cơ hội quảng bá thương hiệu, giới thiệu hàng hóa đến tay người tiêu dùng nông thôn. Bên cạnh đó, giúp người tiêu dùng nông thôn có cơ hội sử dụng hàng Việt với chất lượng đảm bảo, giá cả hợp lý, ổn định, phù hợp với thu nhập của mình. Các chuyến hàng Việt này cũng góp phần nâng cao sức cạnh tranh cho các sản phẩm Việt Nam, ngăn chặn việc sản xuất hàng giả, kém chất lượng… nhằm đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng.

Với một địa phương gần biên giới như An Giang, việc đưa hàng Việt về nông thôn, vùng sâu, vùng biên giới còn có tác dụng rất lớn trong việc đẩy lùi hàng lậu, hàng không có nguồn gốc rõ ràng. Thực tế cho thấy, sau 3 ngày diễn ra, “Phiên chợ hàng Việt về vùng nông thôn biên giới” được tổ chức tại vùng sâu Tứ Giác Long Xuyên (xã Vĩnh Gia - huyện Tri Tôn) đã thu hút 20 DN địa phương và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, TP. Hồ Chí Minh tham gia với 40 gian hàng, thu hút khoảng 10.000 người đến mua sắm. Các mặt hàng được tiêu thụ mạnh trong phiên chợ này là thực phẩm, nông lâm sản, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề, thời trang may mặc, đặc sản địa phương... được sản xuất trong nước. Việc bán hàng đi kèm nhiều hình thức khuyến mãi như kèm tặng phẩm, giảm giá đến 50%, quà biếu cho những sản phẩm mới... đã giúp các DN tham gia thu được trên 1,1 tỷ đồng, cao hơn rất nhiều so với ước tính của Ban Tổ chức và cao nhất so với 3 phiên chợ được tổ chức trong năm 2013.

Không chỉ được chào đón tại các huyện, xã biên giới, ở khu vực nông thôn An Giang, các sản phẩm hàng Việt cũng nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ của người dân. Đơn cử như chuyến đưa hàng Việt về nông thôn của UBND huyện Phú Tân phối hợp với DN tư nhân Tứ Sơn tổ chức thực hiện tại Trung tâm Thương mại Phú Mỹ (thị trấn Phú Mỹ), từ ngày 6 - 9/6/2014. Tại phiên chợ này, người dân đã được tiếp cận với nhiều sản phẩm hàng Việt có chất lượng như nông sản, hàng tiêu dùng, dụng cụ gia đình, quần áo… của khoảng 170 nhà cung cấp, sản xuất trong nước. Đặc biệt, khoảng 60% hàng hóa do thương hiệu Tứ Sơn cung cấp. Ngoài việc bán hàng, các DN còn có những hình thức khuyến mãi, giảm giá, tặng quà để người tiêu dùng có thêm cơ hội so sánh sản phẩm, giá thành và chất lượng hàng hoá với các sản phẩm cùng loại trên thị trường. Do đó, phiên chợ hàng Việt này đã thu hút được rất nhiều người dân địa phương đến mua sắm.

Đổi mới hình thức đưa hàng Việt về nông thôn

Theo bà Mai Thị Ánh Tuyết – Giám đốc Sở Công Thương tỉnh An Giang, thời gian qua, thông qua Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, người tiêu dùng, đặc biệt là người tiêu dùng khu vực nông thôn tỉnh An Giang đã nhận thức được tầm quan trọng của các sản phẩm, hàng hóa mang thương hiệu Việt, mang lại giá trị kinh tế thiết thực cho đất nước, cho DN sản xuất trong nước, giúp DN có cơ hội phát huy thế mạnh trong sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng hàng hóa, mở rộng thị trường nội địa… Hệ thống phân phối hàng Việt cũng từng bước được tạo lập ở các địa phương nhằm đưa hàng hóa, dịch vụ Việt đến tận tay người tiêu dùng, góp phần làm thay đổi diện mạo của hệ thống phân phối hàng Việt và tác động tích cực đến thói quen mua sắm của người tiêu dùng Việt Nam.

Thời gian tới, để người tiêu dùng toàn tỉnh nói chung và người tiêu dùng khu vực nông thôn được tiếp cận nhiều hơn với các sản phẩm hàng Việt có chất lượng với giá cả phải chăng, bên cạnh việc tiếp tục thực hiện Chương trình “Hàng Việt về nông thôn” và “Phiên chợ hàng Việt” theo kế hoạch, từ năm 2014, chương trình “Hàng Việt về nông thôn 2014” của tỉnh An Giang sẽ bắt đầu thử nghiệm mô hình “Đưa hàng Việt vào chợ truyền thống”. Đây là mô hình tương tự như chương trình mà Trung tâm Nghiên cứu kinh doanh và hỗ trợ DN (BSA) và Hội DN hàng Việt Nam chất lượng cao đã tổ chức thành công tại các chợ truyền thống ở TP.HCM trong năm 2012 và 2013. Mô hình này gồm một lớp chia sẻ kỹ năng bán hàng giỏi, đông khách và chương trình liên kết DN với tiểu thương, bày bán các sản phẩm mới, nhiều khuyến mãi ngay tại chợ. Trước mắt, hình thức này đã nhận được sự phản hồi tốt của người tiêu dùng và đây được coi là bước tiến mạnh, giúp các sản phẩm hàng Việt tiếp cận nhanh hơn và bám rễ chắc hơn tại thị trường khu vực nông thôn tỉnh An Giang.

Ban biên tập ((Thông tin do báo Công thương và Cổng Thông tin UBDT phối hợp thực hiện))