Thông tin giá cả thị trường tuần từ 24/11/2014 đến 28/11/2014

09:41 AM 25/11/2014 |   Lượt xem: 2097 |   In bài viết | 

TIÊU ĐIỂM

Giữ chữ “tín” trong sản xuất nông sản xuất khẩu


Những tháng gần đây, thông tin nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu như cá, tôm, rau quả Việt Nam có nguy cơ bị cấm nhập khẩu vào thị trường châu Âu (EU) do không bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm đã khiến nhiều doanh nghiệp và nhà sản xuất lo lắng. Vậy phải làm thế nào để giữ được chữ tín trong lĩnh vực này?

Nguy cơ mất thị trường

Vụ Thị trường châu Âu (Bộ Công Thương) cho biết, Tổ chức phúc lợi động vật của Hà Lan Wakker Dier đã phát hiện trong số 43 mẫu cá nhập khẩu từ Đông Nam Á có một nửa mẫu cá basa và rô phi có chứa vi khuẩn kháng kháng sinh, trong đó có sản phẩm của Việt Nam. Bộ Y tế - Phúc lợi - Thể thao Hà Lan khẳng định sẽ tăng cường kiểm tra chất lượng sản phẩm cá nuôi từ Đông Nam Á nhập khẩu vào Hà Lan và EU nói chung. Bên cạnh đó, Cơ quan quốc gia quản lý thương mại thực phẩm cũng tuyên bố sẽ kiểm tra chặt chẽ hơn và rà soát lại các quy định về dư lượng kháng sinh theo hướng điều chỉnh giảm các chỉ số dư lượng kháng sinh đối với các sản phẩm thủy sản nhập khẩu.

Trước đó, Vụ Thị trường châu Âu cũng cảnh báo đã có hai lô hàng rau quả Việt Nam xuất sang EU không bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm vì cá nhiễm vi sinh như khuẩn E.Coli, Salmonella... Ngay cả những mặt hàng nông sản đang có lợi thế xuất khẩu như: cà phê, hồ tiêu… cũng phải đối diện với áp lực hàng rào kỹ thuật trong lĩnh vực nông sản liên quan đến: Dư lượng thuốc trừ sâu, kim loại nặng, biến đổi gen, canh tác, môi trường, đóng gói, ghi nhãn... Đơn cử như hồ tiêu, năm đầu tiên lọt vào ngành hàng “tỷ đô” chỉ 10 tháng đầu năm 2014, giá trị kim ngạch xuất khẩu đã đạt 1,106 tỷ đô-la Mỹ nhưng cũng đang phải đối mặt với các chỉ số an toàn vệ sinh thực phẩm và đòi hỏi sản phẩm phải có thương hiệu, chỉ dẫn xuất xứ, sản xuất, thương mại bền vững cho xã hội và môi trường ở một số thị trường cao cấp, khó tính như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản…

Đây rõ ràng là những thông tin bất lợi đối với ngành nông nghiệp Việt Nam khi đang còn loay hoay tìm đường mở rộng xuất khẩu ra thị trường thế giới nói chung và châu Âu nói riêng, vậy mà ở trong nước vẫn còn những kẻ “điếc không sợ súng” “tham bát bỏ mâm” khiến cả ngành xuất khẩu nông sản có thể mất trắng thị trường.
Giải pháp giữ chữ tín

Để hàng nông sản xuất khẩu có thể vượt qua được những rào cản mang tính kỹ thuật và đứng vững trên thị trường quốc tế đòi hỏi phải giải quyết từ gốc các vấn đề từ tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, thống nhất điều hành xuất khẩu. Đồng thời, có chương trình quảng bá nông sản Việt Nam để mở rộng thị trường cả về số lượng lẫn chất lượng. Bản thân từng doanh nghiệp phải tự khẳng định chỗ đứng của mình trên thị trường quốc tế bằng việc áp dụng và thực hiện đúng các quy định về tiêu chuẩn của quốc gia. Ngoài ra, doanh nghiệp phải thay đổi tư duy và cách thức tổ chức sản xuất thông qua xây dựng mối liên kết; kiểm soát nguyên liệu đầu vào; cập nhật các yêu cầu của thị trường vì các nước thường xuyên thay đổi tiêu chuẩn kỹ thuật và phải có sự kết nối chặt chẽ với nhà nhập khẩu.

Những chuyện “nóng” về vệ sinh an toàn thực phẩm trong nước thời gian gần đây cùng với nhiều lô hàng nông sản xuất khẩu bị trả về cho thấy, việc hướng tới một nền sản xuất sạch ngày càng trở nên cấp bách. Việc hình thành được chuỗi liên kết để kiểm soát chặt từ khâu sản xuất, chế biến, đến tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa rất quan trọng. Đồng thời, phải tăng cường năng lực kiểm tra, giám sát của cơ quan chức năng nhằm xử lý mạnh các trường hợp cố tình áp dụng kỹ thuật nuôi trồng có hại cho môi trường, làm “bẩn” nông phẩm. Và hơn ai hết, bà con nông dân phải nâng cao nhận thức, thay đổi thói quen canh tác, chế biến của mình để những nông sản thực phẩm làm ra thực sự đảm bảo chất lượng và an toàn, giữ được hình ảnh và chỗ đứng của nông sản Việt trên thị trường thế giới. Rõ ràng việc giành được thị trường xuất khẩu nông sản đã khó, nhưng giữ được thị trường còn khó hơn nhiều. Một khi đã thất tín với khách hàng và người tiêu dùng thì chính người sản xuất đã tự làm hại mình.

MUA GÌ

Hà Giang: Bắp cải xanh đắt hàng

Những ruộng rau bắp cải xanh tươi, chắc mập, có vị ngọt đậm... phát triển tốt ở vùng khí hậu lạnh của xã Sảng Tủng (Đồng Văn) đem về thu nhập khá cho nhiều hộ đồng bào người Mông. Tại thôn Séo Lủng B, nơi có diện tích trồng rau bắp cải lớn nhất xã với diện tích 20 héc-ta; bà con trồng rau cho biết: Cây rau này dễ trồng, không mất nhiều công chăm sóc, sau vài tháng là có thể bán được. Hiện giá bán tại vườn là 7.000 đồng/kg, mang ra chợ bán thì có giá từ 12.000 - 15.000 đồng/kg. Được biết, hiện thị trường tiêu thụ rau rất tốt, các hộ chuyên cung cấp cho các nhà hàng, chợ, trường học trên địa bàn huyện Đồng Văn và một số chợ khác ở Mèo Vạc, Yên Minh hoặc thương lái đến tận nơi thu mua.

Dưa hấu vụ thu đông được mùa, được giá


Vụ đông xuân năm 2014 - 2015, bà con nông dân huyện Tam Nông đã xuống giống được hơn 48 héc-ta dưa dấu. Hiện nay, nông dân thị trấn Tràm Chim, các xã Phú Thọ, Phú Cường, Phú Đức, Phú Hiệp (huyện Tam Nông) bắt đầu thu hoạch dưa hấu vụ thu đông năm 2014 với tổng diện tích 80 héc-ta, giá bán từ 7.000 - 10.000 đồng/kg. Một nông dân xã Phú Cường trồng hơn một héc-ta dưa hấu cho biết: Sau hơn 2 tháng canh tác ông thu hoạch hơn 20 tấn dưa, thương lái ở tỉnh Tiền Giang đến thu mua với giá 10.000 đồng/kg, trừ chi phí thu lãi 100 triệu đồng. So với vụ trước, vụ này dưa trúng mùa, được giá hơn, chủ yếu bán cho thương lái ở ngoài tỉnh tiêu thụ ở các chợ đầu mối TP. Hồ Chí Minh, các tỉnh miền Tây...

Đồng Nai: Giá cà phê chưa ổn định

Hiện nay, nhiều nhà vườn ở huyện Trảng Bom (Đồng Nai) bắt đầu thu hoạch cà phê. Năm nay nhà nông được mùa, được giá, nhưng người trồng cà phê vẫn không vui vì chi phí đầu tư tăng, giá thị trường liên tục biến động, dù mới vào đầu vụ thu hoạch. Hiện tại, giá cà phê ở mức 38.000 - 40.000 đồng/kg cà phê nhân, 6.000 - 8.000 đồng/kg cà phê tươi. Bà con địa phương cho biết, so với năm ngoái, vụ mùa năm nay trúng hơn, năng suất gần gấp đôi, khoảng 1,2 đến 1,3 tấn/héc-ta. Tuy nhiên, giá vật tư nông nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu... tăng cao nên bà con thu lãi thấp. Bởi 1 tấn cà phê được gần 40 triệu đồng, trong khi đó, tiền chi phí hết 20 triệu đồng. Mong muốn của người nông dân là giá ổn định ở mức có lãi khá để nhà nông tiếp tục đầu tư phát triển.

Đồng Tháp: Chanh bông tím được thị trường ưa chuộng


Chanh bông tím là loại cây dễ trồng, thời gian sinh trưởng ngắn, tỷ lệ đậu trái và năng suất cao, đặc biệt được thị trường ưa chuộng. Hiện toàn tỉnh có khoảng 5.000 héc-ta chanh, trong đó diện tích trồng chanh bông tím chiếm từ 40 - 50%, tập trung nhiều ở các huyện Châu Thành, Cao Lãnh, Lấp Vò. Tại xã An Hiệp, huyện Châu Thành, giá chanh bông tím bán từ 15.000 - 16.000 đồng/kg, có thời điểm tăng 25.000 đồng/kg. Nhiều người dân trồng chanh lai bông tím nhận định, so với loại chanh núm hay chanh giấy thì chanh bông tím cho trái quanh năm, nhưng vẫn có hương vị lẫn độ chua như chanh truyền thống. Chanh bông tím lớn nhanh, chỉ trồng hơn một năm thì cho trái, năng suất và tuổi thọ cao hơn các giống chanh khác gần chục năm.

Đồng bằng sông Cửu Long: Trái cây rải vụ bán giá cao

Việc sản xuất trái chín rải vụ là một lợi thế lớn trong sản xuất trái cây ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, có hiệu quả cao, chủ động thời gian thu hoạch, giá bán cao. Hiện sầu riêng cơm vàng hạt lép có giá trên 70.000 đồng/kg, xoài cát Hòa Lộc 40.000 đồng/kg, chôm chôm từ 15.000 - 25.000 đồng/kg... Tại ấp Bình Thuận, xã Tam Bình, huyện Cai Lậy (Tiền Giang), nhà vườn nào thu hoạch sầu riêng rải vụ đều thu lãi khá vì giá đang ở mức trên 70.000 đồng/kg. Bà con trồng xoài cát Hòa Lộc ở Cái Bè (Tiền Giang) cũng đang phấn khởi khi trái chín được các thương lái tìm mua tận vườn với giá hơn 40.000 đồng/kg. Đặc biệt, thời tiết năm nay thuận lợi đối với việc xử lý cho xoài ra hoa rải vụ nên chi phí giảm một nửa so với năm trước. Nhà vườn trồng chanh cũng đang có một vụ bội thu, bởi giá đã tăng gấp 5 lần so với 3 tháng trước ở mức giá 14.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí, nhà vườn lãi trên 10.000 đồng/kg.

Giá tiêu và cà phê một số địa phương trong tuần

Tỉnh

Giá tiêu (đồng/kg)

Chư Sê

(Gia Lai)

193.000

Châu Đức

(Bà Rịa)

198.000

Đắk Lắk –

Đắk Nông

194.000

Bình Phước

196.000

Tỉnh

Giá cà phê (đồng/kg)

Đắk Lắk

41.000

Lâm Đồng

40.000

Gia Lai

41.000

Đắk Nông

41.000

BÁN GÌ

Hỗ trợ doanh nghiệp ĐBSCL xuất khẩu nông, thủy sản sang Phần Lan


Thông qua dự án “Hỗ trợ phát triển xuất khẩu nông, thủy sản vào thị trường Phần Lan và Bắc Âu”, Chính phủ Phần Lan muốn giúp doanh nghiệp đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng trên vào thị trường này. Kinh phí được Chính phủ Phần Lan hỗ trợ cho dự án khoảng 3 tỷ đồng. Hiện các doanh nghiệp ĐBSCL chủ yếu xuất khẩu sang Phần Lan cá ngừ và cá tra (trong đó cá tra chiếm đến 97%) với kim ngạch còn rất hạn chế. Tuy nhiên, khả năng mở rộng xuất khẩu hàng nông, thủy sản vào Phần Lan nói riêng và khu vực Bắc Âu nói chung vẫn còn khá lớn. Muốn làm được điều này, các doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng sản phẩm, đặc biệt cần có nghiên cứu thị trường và chú trọng hơn vấn đề nhãn mác, bao bì sản phẩm. Đặc biệt, các doanh nghiệp cần thường xuyên cập nhật các tiêu chuẩn, quy định mới, được Phần Lan và các nước Bắc Âu công bố.

Theo đánh giá, dự án sẽ là cầu nối quan trọng giúp doanh nghiệp tiếp cận được thông tin, quy định của thị trường này. Đồng thời, thông qua dự án, doanh nghiệp được đào tạo để nâng cao năng lực sản xuất, chế biến nhằm đáp ứng được các quy định, tiêu chuẩn của Phần Lan và Bắc Âu.

Cá tra, basa Việt Nam tiếp tục bị Mỹ áp thuế chống bán phá giá

Theo Cục Quản lý Cạnh tranh Bộ Công Thương, Ủy ban Thương mại quốc tế Mỹ (ITC) đã ra quyết định cuối cùng về việc tiếp tục áp thuế chống bán phá giá đối với cá tra, cá basa nhập khẩu từ Việt Nam sau khi rà soát thuế lần thứ hai đối với mặt hàng này. Như vậy, trong ít nhất 5 năm nữa, cá tra, cá basa Việt Nam vẫn bị Mỹ áp thuế chống bán phá giá. Trước đó, trong khuôn khổ quy trình rà soát lần thứ hai lệnh áp dụng thuế chống bán phá giá, ITC đã biểu quyết tuyệt đối, khẳng định nguy cơ tiếp diễn hoặc tái diễn thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất hàng hoá tương tự trong nước trong một khoảng thời gian có thể dự báo trước nếu như Mỹ dỡ bỏ lệnh áp thuế chống bán phá giá đang được áp dụng đối với cá tra, cá basa nhập khẩu từ Việt Nam.

Giá cá Song Vua cao kỷ lục

Vừa qua, nhiều hộ dân nuôi cá ở làng bè Long Sơn (xã Long Sơn, TP. Vũng Tàu) đã xuất bán một đợt cá Song Vua có trọng lượng 30 ki-lô-gam mỗi con với mức giá cao kỷ lục 350.000 đồng/kg. Song Vua là loại cá có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất, có thể tăng trọng từ 5 đến 8 kg/năm tùy nguồn nước cũng như kỹ thuật chăm sóc của người nuôi. Trung bình một hộ nuôi cá Song Vua trên bè sau hơn 3 năm chăm sóc đã đạt trọng lượng 30 kg/con, trừ chi phí bà con lãi từ 8 - 9 triệu đồng/con. Tuy nhiên, giống cá này sức đề kháng kém, tỷ lệ hao hụt trong khi nuôi rất cao nên khi thả nuôi các hộ phải đầu tư công sức chăm sóc rất kỹ. Đặc biệt, cá rất mẫn cảm với thay đổi thời tiết. Do đó vào những lúc chuyển trời hay giao mùa, người nuôi cần phải theo dõi chặt chẽ để kịp thời xử lý khi cá có những dấu hiệu nhiễm bệnh.

Trà Vinh : Nông dân lao đao vì giá mía nguyên liệu giảm mạnh

Niên vụ mía 2014 - 2015, các hộ trồng mía ở Trà Vinh đang vào vụ thu hoạch nhưng với giá thu mua hiện nay, nhiều hộ dân tiếp tục bị thua lỗ do giá mía thấp. Hiện Công ty mía đường Trà Vinh đã ra thông báo giá mua mía nguyên liệu, hỗ trợ cước vận chuyển, mía giống… Theo đó, Công ty mía đường Trà Vinh sẽ mua mía nguyên liệu trồng tại Trà Vinh với giá 875.000 đồng/tấn mía sạch, đạt 10 CCS (chữ đường), giảm 55.000 đồng/tấn so với vụ trước. Nếu tăng 0,1 CCS sẽ tăng thêm 10.000 đồng/tấn và ngược lại nếu giảm 0,1 CCS sẽ giảm 7.000 đồng/tấn. Đối với mía nguyên liệu có từ 6 đến dưới 7 CCS, công ty không mua. Nếu đã qua cân và đưa vào ép, công ty chỉ thanh toán không quá 60% so với giá mía sạch đạt 10 CCS và không được hưởng cước vận chuyển.

Trong khi đó, nhiều hộ nông dân trong vùng khi thu hoạch mía chỉ đạt 7 CCS do ảnh hưởng của triều cường. Với năng suất, giá cả như hiện nay, sau khi trừ chi phí mỗi hộ dân lỗ từ 6 – 8 triệu đồng sau 8 tháng trồng mía.

LƯU Ý CẢNH BÁO

Thu hoạch cà phê non - thiệt hại lớn


Hiện nay, trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên như Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum... tình trạng trộm cắp, phá hoại cà phê, hồ tiêu đang ở mức báo động. Để bảo vệ tài sản, nhiều nông hộ đã chủ động thu hái cà phê xanh non. Tuy nhiên, việc thu hái cà phê xanh non khiến chất lượng cà phê nhân xuất khẩu giảm, sản lượng giảm và lâu dài sẽ có những hệ lụy khôn lường.

Thu hoạch sớm để... tránh trộm

Từ giữa tháng 10 đến nay, tại huyện Cư M’gar, vùng trọng điểm sản xuất cà phê của tỉnh Đắk Lắk, đã xảy ra hàng trăm vụ trộm cắp cà phê, gây thiệt hại lớn cho các nông hộ. Nhiều vườn cà phê ở xa các khu dân cư, không người trông coi chỉ sau một đêm, kẻ gian đã hái hết cả vườn. Thậm chí, bọn trộm cắp còn chặt cả cành, cả cây có nhiều quả cà phê chín để đưa ra nơi khác tuốt quả gây thiệt hại lớn trước mắt cũng như về lâu dài cho các nông hộ. Điều đáng lo ngại là kẻ trộm cà phê không đi đơn lẻ mà thường tổ chức thành từng nhóm để ra tay trộm với số lượng lớn theo kiểu triệt phá. Nhóm lẻ từ 3 - 4 người, nhóm lớn lên đến chục người, mang theo xe máy, bao bì để chứa đựng. Sau khi xảy ra sự việc, người dân đã báo cáo chính quyền, lực lượng chức năng nhưng theo phản ánh của người dân thì chính quyền mới chỉ dừng lại ở chỗ ghi nhận sự việc, còn việc tiến hành điều tra, xử lý thì hầu như vẫn giậm chân tại chỗ. Bản thân các cơ quan chức năng cũng cho rằng, việc điều tra các đối tượng này rất khó, bởi các vườn cây chủ yếu nằm xa khu dân cư, vắng vẻ, hiện trường ít dấu vết, khi trộm cắp nếu có động tĩnh chúng dùng điện thoại để thông báo cho nhau tẩu thoát. Một số người dân sợ bị trả thù nên không trình báo hoặc trình báo chậm… Do vậy, các cơ quan chức năng đã đưa ra giải pháp trước mắt, các chủ vườn phải liên kết cùng nhau bảo vệ, khi phát hiện kẻ trộm thì nhanh chóng báo cho cơ quan chức năng để có biện pháp xử lý.

Cần có biện pháp bảo vệ vườn cây

Do nạn trộm cắp cà phê đang diễn ra khá phức tạp nên mặc dù cây cà phê mới có tỷ lệ quả chín đạt gần 70% nhưng nhiều nông hộ ở Đắk Lắk đành thu hoạch sớm để bảo vệ an toàn vườn cây cho các niên vụ sau, vừa tránh được trộm cắp. Nông dân thu hoạch sớm bất chấp khuyến cáo của các ngành chức năng là khi vườn cây có tỷ lệ quả chín từ 90% trở lên mới đưa vào thu hoạch đại trà để góp phần nâng cao chất lượng cà phê nhân xuất khẩu. Mặt khác, theo một số nông hộ, họ thu hái quả xanh nhiều là do chi phí thu hoạch quả và việc bảo vệ quả chín ngoài nương rẫy rất tốn kém. Tính trung bình một đêm trông nương rẫy cà phê trong mùa thu hoạch là 100.000 đồng. Trong khi đó, giá bán sản phẩm giữa quả xanh và quả chín không chênh nhau mấy.

Dưới góc độ chuyên môn, Viện Khoa học kỹ thuật nông, lâm nghiệp Tây Nguyên cho biết, hầu hết các nông hộ sản xuất cà phê chưa đánh giá đầy đủ những hệ lụy khi thu hoạch cà phê sớm. Qua nghiên cứu cho thấy, việc thu hoạch sớm lẫn nhiều quả xanh không những làm giảm chất lượng cà phê nhân xuất khẩu mà còn gây thất thu nghiêm trọng về sản lượng. Nếu thu hoạch nhiều quả cà phê xanh vào đầu và giữa vụ thu hoạch, thì sự hao hụt về sản lượng trên khoảng 20% và nếu tiếp tục thu hái nhiều quả cà phê xanh non diễn ra, thời vụ thu hoạch cà phê sẽ chuyển dịch dần vào cuối mùa mưa, gây nhiều bất lợi cho việc thu hoạch và chế biến...

Hiện tỉnh Đắk Lắk đã có các văn bản, chỉ thị cho các địa phương, doanh nghiệp nhằm tăng cường bảo vệ các vườn cà phê. Các nông hộ sản xuất, kinh doanh cà phê trên địa bàn tỉnh đều bố trí người ngày đêm túc trực trên nương rẫy, hoặc tự liên kết, thành lập các nhóm hộ luân phiên ngày đêm bảo vệ vườn cây. Các xã ở vùng trọng điểm cà phê cần củng cố các tổ an ninh tự quản phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng tăng cường tuần tra, bảo vệ, không cho người lạ vào vườn cà phê. Các địa phương cần tăng cường kiểm tra tạm trú, tạm vắng, số nhân hộ khẩu các nơi khác đến làm thuê... Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền, vận động các đại lý thu mua cà phê không thu mua cà phê xanh, non, cà phê lẫn nhiều quả xanh của các đối tượng không rõ nguồn gốc. Khi gặp trường hợp nghi ngờ phải báo ngay với các đơn vị chức năng để có biện pháp xử lý.

NHẬN ĐỊNH THỊ TRƯỜNG

Khánh Sơn (Khánh Hòa): Tổ chức thu mua nông sản cho đồng bào dân tộc thiểu số


Từ nguồn kinh phí 3 tỷ đồng do UBND tỉnh Khánh Hòa hỗ trợ, Trung tâm Dịch vụ - Thương mại huyện Khánh Sơn đã triển khai kế hoạch thu mua nông sản cho đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn.

Thông tin này được các mậu dịch viên thông báo đến tận địa bàn thôn, xóm. Các cửa hàng dịch vụ thương mại ở địa phương và cán bộ, nhân viên Trung tâm sẽ chịu trách nhiệm tập trung thu mua những loại nông sản có sản lượng cao, được người dân trồng nhiều như: bắp, mì, chuối... Về giá cả, Trung tâm thu mua cao hơn giá của thương lái khoảng 10%. Qua hơn 1 tháng triển khai, tuy số lượng nông sản thu mua chưa nhiều nhưng bước đầu đã cạnh tranh được với thương lái. Đến thời điểm này, Trung tâm đã thu mua hơn 200 tấn nông sản với trị giá gần 1 tỷ đồng, trong đó có hơn 160 tấn bắp, 4,3 tấn mì, 36 tấn chuối, 2,3 tấn cà phê... Ở Khánh Sơn hiện có 1.349 héc-ta bắp, 525 héc-ta mì, gần 700 héc-ta chuối, 536 héc-ta cà phê, 45 héc-ta tiêu... cho sản lượng hàng năm lên đến hàng chục nghìn tấn. Kinh tế của các hộ đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn chủ yếu phụ thuộc vào các loại nông sản trồng được trong khi khâu tiêu thụ trước đây chủ yếu phụ thuộc thương lái nên đầu ra khá bấp bênh, giá cả không ổn định...

Bước đầu, việc thu mua đã mang lại những kết quả tích cực, hạn chế được một phần tình trạng thương lái ép giá, góp phần nâng cao giá trị nông sản cho người dân. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, để việc tổ chức thu mua nông sản cho đồng bào dân tộc thiểu số đạt hiệu quả cao, nguồn vốn cần phải được cấp về sớm hơn. Để thu mua được nông sản, các cửa hàng cần phải có vốn ứng trước cho người dân. Vì vậy, nguồn vốn này phải có để triển khai từ đầu vụ. Ngoài ra, nhiều mặt hàng nông sản tươi khi thu mua cần có sân phơi, sản lượng thu mua nhiều phải có kho chứa; thế nhưng hiện nay, kho chứa của Trung tâm đã xuống cấp, sân phơi lại không có. Vì vậy, để mô hình này hoạt động hiệu quả, rất cần có sự quan tâm, đầu tư của các cấp chính quyền của tỉnh Khánh Hòa.

Sử dụng phương tiện cơ giới trong sản xuất, chế biến cà phê

Kinh nghiệm hay ở Hướng Hóa (Quảng Trị)

Huyện Hướng Hóa có diện tích trồng cà phê lên đến 5.000 héc-ta, chủ yếu là giống cà phê chè Catimor. Trong đó gần 2.000 héc-ta đã già cỗi cần phải được nhổ để tái canh nên nhu cầu sử dụng các phương tiện cơ giới trong khâu làm đất rất lớn. Người trồng cà phê ở Hướng Hóa hiện nay muốn tái canh thì chỉ cần có yêu cầu là những người chuyên làm nghề sẽ dùng cưa máy để cắt bỏ cây già. Sau đó, máy cày sẽ tiến hành cày rạch hàng, nông dân chỉ tốn ít sức để nhổ bỏ phần rễ sau đó tiến hành cày ải đất. Theo tính toán của bà con thì riêng chi phí làm đất cho mỗi héc-ta vào khoảng 6 - 8 triệu đồng, rẻ hơn từ 3 - 4 triệu đồng so với cách dùng sức người như lâu nay, trong khi thời gian được rút ngắn xuống chỉ còn 2 ngày thay vì cả tháng như trước.

Không chỉ cơ giới hóa trong khâu làm đất, hiện nay người trồng cà phê ở Hướng Hóa đã bắt đầu sử dụng rộng rãi các loại máy làm cỏ trong khâu chăm sóc cà phê. Các khâu trồng và chăm sóc, hoạt động chế biến cà phê cũng đang được cơ giới hóa nhiều công đoạn. Hiện huyện Hướng Hóa có 17 đại lý thu mua và chế biến cà phê với các loại máy móc hiện đại, bảo đảm bao tiêu toàn bộ sản lượng cà phê hàng năm của người dân trên địa bàn huyện. Bên cạnh đó, nhờ hệ thống giao thông đã phủ kín về tận 100% thôn, bản nên việc vận chuyển cà phê đã được cơ giới hóa hoàn toàn, không còn cảnh người dân phải gùi cõng đến những trục giao thông chính để bán cho thương lái như trước. Theo thống kê của ngành nông nghiệp huyện Hướng Hóa, tỷ lệ cơ giới hóa trong sản xuất cà phê hiện nay đã lên đến khoảng 35 - 40%, trong đó cao nhất là ở các khâu làm đất, vận chuyển và chế biến.

Việc sử dụng các loại phương tiện cơ giới, thiết bị máy móc vào sản xuất, chế biến cà phê nói riêng và trong nông nghiệp nói chung sẽ giúp bà con xóa bỏ tập quán canh tác lạc hậu, hướng đến một nền sản xuất tiên tiến, hiện đại.

CHUYỂN ĐỘNG THỊ TRƯỜNG

Gạo Già Dui (Xín Mần - Hà Giang): Khẳng định thương hiệu để ổn định đầu ra


Gạo Già Dui xã Thèn Phàng (Xín Mần – Hà Giang) đã trở thành đặc sản ưa chuộng trên thị trường nhưng đầu ra sản phẩm, chất lượng không đồng đều nên việc phục tráng thương hiệu là một trong những việc làm cấp thiết, nhằm khẳng định thương hiệu, ổn định đầu ra sản phẩm.

Theo thống kê sơ bộ, năm 2014 toàn huyện có 166 héc-ta trồng lúa Già Dui, được tập trung chủ yếu tại các xã: Thèn phàng, Bản Díu, Xín Mần, Chí Cà, Nàn Sỉn... Sản phẩm hàng hóa đã có, người nông dân sản xuất đều tay nhưng hiện diện tích lúa Già Dui trên địa bàn vẫn chưa được nhân rộng. Thực tế bà con chưa đầu tư thâm canh, chưa chú trọng khâu bảo quản sau thu hoạch; lúa Già Dui cấy ở các thôn khác, xã khác chất lượng gạo kém, lẫn với vùng lúa chất lượng dẫn đến khách hàng không tin tưởng. Ngoài ra, nguyên nhân dẫn tới việc gạo Già Dui kém chất lượng chính là do bà con chưa tranh thủ thời tiết để thu hoạch nhanh gọn, không phơi khô, quạt sạch; còn gặt phơi cả bông lúa tại bờ ruộng làm giảm rất nhiều về năng suất, chất lượng gạo. Cùng với đó, các cơ sở sản xuất, chế biến còn nhỏ lẻ, manh mún, tiêu thụ ít, sản phẩm gạo không đáp ứng thường xuyên.

Hiện huyện Xín Mần đang tập trung mọi nguồn lực khai thác hiệu quả, bền vững tiềm năng và lợi thế lúa Già Dui, trên cơ sở phát triển đồng bộ sản xuất, chế biến và tiêu thụ gắn áp dụng công nghệ cao, kỹ thuật tiên tiến. Huyện còn tập trung hỗ trợ các cơ sở chế biến gạo Già Dui đổi mới công nghệ chế biến, mở rộng quy mô nhà xưởng. Đặc biệt ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm ổn định với doanh nghiệp cùng HTX.

Mục tiêu huyện trong năm 2015, quy hoạch vùng sản xuất lúa Già Dui trên diện tích ổn định 110 héc-ta/năm, tiêu thụ sản phẩm trên 450 tấn/năm. Theo mức giá 21.000 đồng/kg gạo Già Dui thành phẩm hiện nay thì việc phục tráng thương hiệu đặc sản gạo Già Dui sẽ là phương án thoát nghèo bền vững cho bà con nơi đây.

Bình Định: Ổn định thị trường phân bón vụ đông – xuân

Bước vào sản xuất vụ đông – xuân 2014 - 2015, theo kế hoạch Bình Định sản xuất 47.156 héc-ta lúa, 16.230 héc-ta hoa màu, với nhu cầu khoảng 35.000 tấn phân bón các loại. Hiện nay, thị trường phân bón có nguồn cung khá dồi dào, giá cả giảm mạnh so với cùng kỳ năm ngoái.

Theo ông Võ Tuấn Toàn - Giám đốc Công ty cổ phần Phân bón và Dịch vụ tổng hợp Bình Định, giá phân bón hiện ổn định là do nhu cầu tiêu thụ đầu vụ đông - xuân chưa cao, trong khi giá phân bón trên thị trường thế giới ít có biến động lớn. Hiện nay, dây chuyền sản xuất phân bón NPK 1 hạt (bằng công nghệ tạo hạt hơi nước, công suất 50.000 tấn/năm) của đơn vị hoạt động ổn định, đảm bảo chất lượng tốt, nhưng giá giảm 20% so với các loại phân bón ngoại nhập cùng loại. Công ty đã chuẩn bị hơn 20.000 tấn phân NPK các loại; riêng tiêu thụ tại thị trường Bình Định khoảng 10.000 tấn. Hiện giá phân đang ổn định ở mức thấp nên bà con nông dân không phải lo mua dự trữ như mọi năm. Thời điểm hiện nay, giá phân urê Phú Mỹ từ 9.500 - 10.000 đồng/kg; DAP Hàn Quốc 18.000 đồng/kg; lân Lâm Thao 4.000 đồng/kg; lân Văn Điển 3.000 đồng/kg; NPK Phú Mỹ 12.500 đồng/kg...

Giá phân bón đầu vụ ở mức thấp nên bà con tiết kiệm được một phần chi phí sản xuất. Tuy nhiên, điều đáng lo là tình trạng kinh doanh, buôn bán phân bón kém chất lượng, phân bón giả, nhái nhãn hiệu, thiếu hàm lượng dinh dưỡng... xuất hiện khá nhiều trên thị trường trong thời gian gần đây. Vừa qua, Chi cục Quản lý thị trường Bình Định kiểm tra, phát hiện 1.220 ki-lô-gam phân bón NPK 20-20-14 giả nhãn hiệu Đầu Trâu của Công ty Phân bón Bình Điền tại Công ty TNHH TM-DV Anh Trang (tại phường Trần Quang Diệu – TP. Quy Nhơn). Qua kiểm nghiệm, hàm lượng dinh dưỡng của lô hàng này chỉ đạt 29,2% so với phân bón thật.

HÀNG THẬT - HÀNG GIẢ

Những đặc điểm nhận biết săm SRC thật – giả


Hiện tại trên thị trường đang lưu hành nhiều loại săm xe máy giả, trong đó có sản phẩm giả mang nhãn hiệu SRC của Công ty Cổ phần Cao su Sao Vàng. Chính vì vậy, khi chọn mua xe săm xe máy nhãn hiệu SRC, bà con cần hết sức lưu ý.

Với chất lượng đã được khẳng định từ rất nhiều năm, săm mang nhãn hiệu SRC của Công ty Cổ phần Cao su Sao Vàng từ lâu đã được người tiêu dùng trên cả nước ưa chuộng, tin dùng. Đây cũng chính là lý do để các đối tượng sản xuất săm giả lợi dụng lòng tin của người tiêu dùng, sản xuất săm SRC giả, tung ra thị trường.

Đặc điểm nhận dạng

Mặc dù săm SRC giả mới nhìn qua tương đối giống với săm SRC thật, nhưng do nguyên liệu, công nghệ và dây chuyền sản xuất của săm SRC giả không hiện đại, không tuân thủ các quy định về kỹ thuật, chỉ tiêu chất lượng như săm SRC thật, nên nếu chú ý quan sát bằng mắt thường, bà con cũng có thể nhận ra sự khác biệt giữa sản phẩm săm SRC thật và SRC giả.

Trước hết, về bao bì của sản phẩm: Túi đựng săm SRC thật thường có màu tươi sáng, mép dán phía sau túi cùng màu xanh với túi, chữ in trên túi sắc nét, không có viền đen quanh chữ. Trong khi đó, săm giả túi có màu sẫm hơn, mép dán có màu xanh hoặc trắng, chữ đôi khi bị nhòe, có viền đen quanh chữ.

Ngoài những đặc điểm dễ nhận thấy ở bao bì sản phẩm, săm thật không có mùi khét, sờ mặt săm mềm mại, đàn hồi, chỉ kẻ màu trên săm, lô gô kèm chữ SRC đúc nổi, sắc nét. Ngược lại, săm giả do làm từ cao su tái sinh nên có mùi rất khét, bề mặt sờ cứng, lô gô và chữ SRC mờ nhạt, có màu đỏ hay màu khác thân săm.

Đặc biệt, bà con cần lưu ý, dấu kiểm soát là 1 trong những đặc điểm quan trọng để nhận diện săm SRC thật. Trong đó, dấu kiểu soát của săm SRC thật có hình bầu dục và bao giờ cũng có dấu mã hóa thời gian sản xuất. Bao gồm một chữ cái X hoặc Y, hoặc Z đi kèm 4 chữ số. Bà con chú ý, săm SRC giả không có, hoặc chỉ có dấu kiểm soát chứ không có dẫy số mã hóa thời gian sản xuất như săm SRC thật.
Bên cạnh đó, với bộ phận quan trọng của săm là van, bà con cần quan sát kỹ. Van của săm SRC thật bao giờ cũng có chữ TR4 và CX hoặc SL, hoặc F đúc nổi trên đế van. Nếu sản phẩm săm SRC nào không có dấu hiệu này, chắc chắn là săm SRC giả.

Chất lượng thấp

Đại diện của Công ty Cổ phần Cao su Sao Vàng khẳng định: Thiệt hại lớn nhất đối với người tiêu dùng, đó là săm SRC giả có các tiêu chí kỹ thuật khác xa săm SRC thật. Cụ thể như: Độ bền kéo đứt cao su thân săm, kéo đứt mối nối, độ giãn dài kéo đứt, sức dính cao su của đế van và cao su thân săm… của săm SRC thật cao gấp đôi, thậm chí gấp 3 săm SRC giả. Do đó, sử dụng săm SRC giả, bà con không chỉ thiệt hại về kinh tế do mua phải săm chất lượng kém, mà hơn thế còn có thể ảnh hưởng đến độ an toàn của xe, tính mạng người điều khiển khi lưu thông trên đường.

Trên thị trường đang tồn tại 2 loại săm SRC giả: Một là, săm được sản xuất giả có chất lượng rất thấp và đóng bao bì giả như trên. Hai là, săm SRC hoặc săm của các nhãn hiệu có uy tín khác đã qua sử dụng. Trên thân săm có hằn các vết của lòng lốp và có 1 vài miếng vá chín nhỏ, gọn. Toàn bộ thân săm được lau một lớp dầu bóng. Van, đệm chân van và đai ốc bị han gỉ hoặc thay mới bằng những đệm và đai ốc kém chất lượng. Săm này cũng được đóng trong bao bì giả.

Hiện, Công ty Cổ phần Cao su Sao Vàng có hơn 100 đại lý chính thức tại 3 miền Bắc – Trung – Nam. Chính vì vậy, để mua được săm SRC của Công ty Cổ phần Cao su Sao Vàng, bà con nên đến các cửa hàng có treo biển đại lý của công ty chọn mua để tránh mua phải hàng giả. Trường hợp thay dọc đường, bà con cũng nên nhớ các đặc điểm nhận dạng săm SRC thật đã hướng dẫn ở trên để mua được đúng săm SRC do Công ty Cổ phần Cao su Sao Vàng sản xuất.

HÀNG VIỆT

Tiền Giang: Đẩy mạnh kênh lưu thông hàng hoá


Trong thời gian qua, Chương trình đưa hàng Việt về nông thôn được xem là giải pháp "khai thông" hàng Việt về nông thôn và đã tạo cầu nối để doanh nghiệp (DN) tiếp cận với người tiêu dùng vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn của các xã vùng sâu, vùng xa, để thực hiện cuộc vận động này không hề dễ dàng.

Giúp bà con tiếp cận hàng Việt Nam chất lượng cao

Theo thống kê của Ban Chỉ đạo Cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam" tỉnh Tiền Giang, trong 5 năm qua, trên địa bàn tỉnh diễn ra 10 Hội chợ phát triển kinh tế thương mại - nông nghiệp, Hội chợ hàng Việt Nam chất lượng cao và 134 đợt đưa hàng Việt về nông thôn, khu, cụm công nghiệp. Chương trình đưa hàng Việt về nông thôn ngày càng thu hút nhiều DN tham gia bởi hầu hết các DN đều nhận thấy hiệu quả lâu dài của chương trình này, với mức sống và mức chi tiêu của người dân nông thôn đang từng ngày được nâng lên. Cụ thể, trong nhiều phiên chợ đưa hàng Việt về nông thôn không chỉ có sự tham gia của các DN trong, ngoài tỉnh, với nhiều ngành hàng như: Bột Vĩnh Thuận, bánh kẹo Bidrico, kem đánh răng Dạ Lan, nhựa Duy Tân… Ngoài ra, các DN còn tự tổ chức bán hàng lưu động ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, nhằm phục vụ tốt nhất nhu cầu tiếp cận, mua sắm hàng hóa, đặc biệt là hàng Việt của người dân nông thôn.

Một số DN nhỏ cho rằng, nếu quảng cáo trên các kênh thông tin đại chúng đòi hỏi kinh rất lớn mà các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ không thể kham nổi. Do đó, tham gia các phiên chợ bán hàng ở nông thôn là cơ hội tốt nhất để các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ quảng bá sản phẩm, tìm hiểu thị trường và đối tác để mở đại lý. Bên cạnh đó, các DN có cơ hội quảng bá sản phẩm, tiếp xúc với tiểu thương, người tiêu dùng, hiểu rõ hơn về nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng nông thôn. Quan trọng hơn hết, Cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam" được bà con nhân dân hưởng ứng tích cực. Điều này được thể hiện rõ qua việc đông đảo bà con tham gia mua hàng và các hoạt động khác của các chương trình bán hàng Việt ở các vùng nông thôn.

Vẫn còn nhiều khó khăn, trăn trở

Ở các địa phương vùng sâu, vùng xa hiện nay, nhu cầu tiêu thụ hàng hóa của người dân không nhỏ. Các chương trình đưa hàng Việt về nông thôn đã tạo điều kiện cho người dân nông thôn tiếp cận, mua sắm hàng Việt dễ dàng hơn. Từ đó, tạo cho họ niềm tin đối với hàng Việt và không ít gia đình ở nông thôn chủ yếu sử dụng hàng hóa sản xuất trong nước. Do đó, các chương trình đưa hàng Việt về nông thôn cần được tổ chức quy mô, thường xuyên và cải tiến hơn.

Trung tâm Nghiên cứu kinh doanh và Hỗ trợ doanh nghiệp (BSA) đã từng nhận định, mặc dù thị trường nông thôn có nhiều tiềm năng với 70% dân số sinh sống, nhưng hiện nay thị trường này chưa thực sự thu hút các DN sản xuất - kinh doanh trong nước đưa hàng về. Bởi thị trường này vẫn có doanh số thấp do thị trường phân tán, sức mua thấp, xây dựng mạng lưới phân phối tốn kém, chi phí vận chuyển cao... Hiện chỉ có khoảng 10 - 15 công ty sản xuất hàng tiêu dùng có hàng hóa khá phổ biến tại thị trường nông thôn, vùng sâu, vùng xa, nhưng chủ yếu là các nhãn hàng của các tập đoàn đa quốc gia như: Unilever, Dutch Lady, P&G, Pepsi, Nestlé... hoặc của các nhãn hiệu lớn trong nước như: Tân Hiệp Phát, Vinamilk, Vina Acecook, Mỹ Hảo, Kinh Đô... Chương trình đưa hàng Việt về nông thôn diễn ra trên địa bàn tỉnh vẫn còn với quy mô nhỏ lẻ, sự liên kết yếu. Do đó, các DN cần tính đến phương án dài hơi là lên kế hoạch quảng bá sản phẩm phù hợp hay xây dựng hệ thống phân phối, đại lý ở thị trường vùng sâu. Để thực hiện kế hoạch này không đơn giản vì chi phí xây dựng hệ thống phân phối rất tốn kém và đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao.

Theo nhận định của các DN, đưa hàng Việt về nông thôn là một chương trình hay. Tuy nhiên, sức người và nguồn vốn đều có hạn, để trụ lại và đồng hành cùng người dân ở nông thôn, cần có một chương trình xúc tiến lớn, chiến lược và sự hỗ trợ lâu dài hơn từ phía Nhà nước. Vì vậy, Nhà nước và các ban, ngành có liên quan cần tiếp sức cho các DN trong nước để họ tiếp tục đưa hàng nhiều hơn về nông thôn. Nếu chúng ta không triển khai mạnh mẽ theo chiều sâu, Chương trình đưa hàng Việt về nông thôn chỉ có thể dừng lại ở mức phong trào.

NHÀ NÔNG CẦN BIẾT

Quy trình trồng dưa chuột tiêu chuẩn VietGAP


Việc sản xuất dưa chuột hướng VietGAP đảm bảo các yêu cầu từ trồng, chăm sóc, thu hoạch... sẽ tạo cơ hội để người nông dân tiếp cận với cách thức canh tác mới, tăng thu nhập, hướng tới sản xuất gắn với bảo vệ môi trường và cung cấp thực phẩm an toàn cho thị trường tiêu dùng, đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu.

Chuẩn bị giống

Giống dưa phải do các công ty, đơn vị sản xuất có uy tín cung cấp và đảm bảo hạt giống đó phải có tỷ lệ này mầm cao. Trước khi gieo trồng, cần tiến hành ngâm ủ hạt giống: ngâm hạt trong nước 3 sôi, 2 lạnh, ngâm trong vòng 2 – 3 giờ, rồi đổ vào khăn ẩm ủ. Sau 1 - 2 ngày, hạt nảy nầm.

Làm bầu và gieo cây con

Sau khi chuẩn bị xong hạt giống, tùy thuộc vào điều kiện bà con có thể gieo trực tiếp hoặc gieo qua bầu. Đất bầu: 40% đất bột + 40% xơ dừa + 20% là mùn mục. Khi hạt nứt nanh thì đem gieo vào các hốc bầu, mỗi hốc 1 hạt và tưới đủ ẩm để mầm cây phát triển tốt. Đặt hạt xong dùng một lớp đất bầu dải mỏng lên mặt khay, che kín hạt rồi tiến hành tưới ẩm ngay sau đó. Mỗi ngày cần tưới nhẹ 1 lần và thường xuyên kiểm tra xem hạt đã nảy mầm chưa. Sau 5 – 7 ngày, là có thể tiến hành mang bầu cây ra trồng.

Đất trồng, lên luống

Đất trồng dưa chuột nên chọn khu vực đất cao, dễ thoát nước nhưng chủ động nguồn nước tưới, có tầng canh tác dày 20 – 30 cen-ti-mét. Đất thịt nhẹ hoặc cát pha có độ pH từ 6 - 6,5. Bà con đặc biệt chú ý phải chọn đất luân canh với cây lúa nước hoặc đậu, bắp, ngô… Trước đó 2 vụ không trồng các cây cùng họ như dưa leo, khổ qua bầu bí… để tránh sâu bệnh tồn dư. Đất trồng cần được cày bừa kỹ, làm nhỏ, tơi xốp, nhặt sạch cỏ dại.

Luống dưa rộng 1,2 – 1,5 mét, cao 25 – 30 cen-ti-mét. Rãnh nên để rộng từ 30 – 35 cen-ti-mét. Sau khi lên luống, rạch 1 hàng nhỏ ở giữa luống và tiến hành bót lót. Bà con chú ý phân bón lót phải là phân hữu cơ đã ủ hoai mục… Bón 1 lượt phân hữu cơ rồi bón lân lên trên, sau đó phủ một lớp đất mỏng lên mặt luống.

Sau khi bón lót, tiến hành trải màng phủ nylon để hạn chế sâu bệnh hại và cỏ dại trong quá trình cây dưa sinh trưởng. Màng phủ đã khoét sẵn các lỗ đường kính từ 10 – 12 cen-ti-mét tương đương với khoảng cách trồng dưa.

Cách trồng

Sau khi loại bỏ những cây khác dạng, cây bị bệnh, chuyển khay ra đồng, nhấc nhẹ bầu cây ra khỏi khay và rải đều cây theo khoảng cách quy định. Bà con chú ý, khi nhấc cây ra khỏi khay bầu nhẹ nhàng, dùng 1 tay đẩy phía dưới đáy bầu lên và tay kia nhấc nhẹ nhàng ra khỏi khay. Vùi kín bầu cây dưới đất và tưới thấm gốc để cho chặt gốc. Nếu bà con dùng rơm rạ hay tàn dư thực vật để phủ luống thì sẽ phủ sau khi trồng cây xong.

Bón phân

Tăng cường sử dụng phân hữu cơ ủ hoai mục bón để bón lót. Kết hợp giữa tưới nước với bón thúc ở 3 thời kỳ: Sau khi cây bén rễ hồi xanh, khi cây bắt đầu ra hoa cái, sau khi thu quả đợt đầu. Bón kết hợp với vun xới nhẹ, nhặt cỏ dại… Nếu không có phân chuồng hoai mục, có thể sử dụng phân hữu cơ sinh học với lượng 3.000 - 3.500 kg/héc-ta.

Cắm giàn Khi cây bắt đầu ra tua cuốn, cần cắm giàn cho dưa chuột, nên cắm hình chữ A. Cắm cọc cách mỗi gốc cây khoảng 5 - 6 cen-ti-mét, cao 2,2 – 2,5 mét.

Phòng trừ sâu bệnh

Áp dụng các biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp IPM để phòng trừ dịch bệnh như: Luân canh cây trồng hợp lý, sử dụng giống tốt, sạch bệnh, thường xuyên vệ sinh đồng ruộng, sử dụng nhân lực bắt giết sâu. Ưu tiên sử dụng các thuốc sinh học (thuốc vi sinh và thảo mộc), thuốc ít độc, thuốc có thời gian phân hủy nhanh và thời gian cách ly ngắn. Liều lượng và cách sử dụng xem hướng dẫn trên bao bì thuốc.
Thu hoạch

Vụ xuân sau gieo khoảng 40 - 45 ngày, vụ đông sau gieo 30 - 35 ngày là bắt đầu thu hoạch. Khi quả đạt tiêu chuẩn khoảng 4 - 5 ngày tuổi là có thể thu hoạch. Nếu để quá già sẽ ảnh hưởng tới sự ra hoa và đậu quả của các lứa sau. Thu hái nhẹ nhàng để tránh đứt dây.

Ban biên tập ((Thông tin do báo Công thương và Cổng Thông tin UBDT phối hợp thực hiện))