Thông tin giá cả thị trường số ra ngày 7/8/2015

02:59 PM 07/08/2015 |   Lượt xem: 2406 |   In bài viết | 

TIÊU ĐIỂM

Giải pháp gỡ khó khi giá cá tra xuống thấp

Lâu nay người nuôi cá tra tại đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã quá quen thuộc với việc giá cả lên xuống thất thường. Gần đây giá cá tra thương phẩm đang sụt giảm mạnh khiến người nuôi thua lỗ. Để giúp sản phẩm có thể đứng vững trên thị trường trong và ngoài nước, các tỉnh tích cực tìm những hướng đi cho ngành hàng chủ lực.

Vì sao giá cá tra xuống thấp

Với những ưu điểm vượt trội như: hàm lượng dinh dưỡng cao, giá bán cạnh tranh, phù hợp với khẩu vị nhiều người tiêu dùng... nên con cá tra Việt Nam được các nhà nhập khẩu quốc tế nhận định là “loại thực phẩm tuyệt vời”. Đây là điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra nước ta chiếm thế thượng phong trong việc định giá mặt hàng này. Tuy nhiên, dõi theo hành trình xuất ngoại của con cá tra thời gian qua có thể thấy mọi thứ dường như ngược lại. Từ vị thế một sản phẩm độc quyền, chỉ sau một thời gian xuất khẩu, giá cá tra bắt đầu giảm mạnh. Điều đáng nói là giá cá giảm mạnh trong khi chi phí đầu vào (thức ăn, nhân công, thuốc thú y…) để nuôi cá lại có xu hướng tăng. Tại Đồng Tháp giá cá tra giống đang giảm từ 650 – 700 đồng/con, các hộ ương giống bị lỗ khoảng 115 đồng/con. Giá cá tra thương phẩm cũng theo đó sụt giảm, từ 20.000 – 20.300 đồng/kg, trong khi giá thành sản phẩm là trên 22.000 đồng/kg, các hộ nuôi chịu lỗ khoảng 2.000 đồng/kg.

Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên? Nhiều doanh nghiệp đổ lỗi rằng do biến động thị trường và tỷ giá. Sự mất giá của đồng Euro so với đô-la Mỹ khiến các nhà nhập khẩu tại châu Âu gặp bất lợi. Doanh nghiệp Việt Nam phải giảm giá bán để đẩy hàng đi hoặc trữ hàng chờ giá lên. Và khi doanh nghiệp khó khăn thì họ “buộc” người nông dân phải cùng chia sẻ, đấy là lý do giá cá tra nguyên liệu luôn ở mức từ hòa đến lỗ. Theo Viện Nghiên cứu Phát triển ĐBSCL, Việt Nam đang chiếm 97% thị phần cá tra thế giới. Nhiều năm qua, chuỗi giá trị cá tra không dự báo được nhu cầu của thị trường, dẫn tới không quy hoạch sản xuất, xảy ra tình trạng cung lớn hơn cầu hay ngược lại. Trên thị trường hiện có quá nhiều công ty xuất khẩu cá tra nhưng chưa tìm được tiếng nói chung, cạnh tranh theo kiểu mạnh ai nấy làm mà chưa tính tới được chuyện hợp nhất vì lợi ích chung của cả ngành hàng cá tra.

“Định vị bản đồ” vùng nuôi cá tra

Từ tháng 6/2015, Hiệp hội Cá tra Việt Nam đã triển khai cho các doanh nghiệp đăng ký hợp đồng xuất khẩu và thu thập dữ liệu về vùng nuôi, bước đầu đã gắn được bộ “định vị” cho con cá tra ĐBSCL. Theo đó, việc đăng ký hợp đồng xuất khẩu cá tra sẽ giúp xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành, tạo sự công khai, minh bạch đối với thị trường cá tra và tăng thêm lợi ích cho các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu lẫn hộ nuôi. Sau khi thu nhận thông tin về vùng nuôi và hợp đồng xuất khẩu, Hiệp hội Cá tra Việt Nam đã có được bộ dữ liệu ban đầu, bao gồm danh sách doanh nghiệp xuất khẩu, thị trường, giá bán, thông tin về vùng nuôi, hộ nuôi… Từ đó, tất cả thông tin về thị trường sẽ trở nên rõ ràng, cụ thể, có lợi cho doanh nghiệp vì thống kê và dự báo trước được số liệu để cân đối cung cầu, hỗ trợ phát triển bền vững ngành cá tra, đồng thời thực hiện được truy xuất nguồn gốc sản phẩm theo yêu cầu của thị trường nước ngoài, giải quyết tình trạng bán phá giá. Ngoài ra, nếu doanh nghiệp nào muốn gây nhiễu để thao túng giá cả trên thị trường cũng sẽ không làm được vì thông tin và dự báo sắp tới cho thị trường đã có. Đến nay, Hiệp hội Cá tra Việt Nam đã có dữ liệu ban đầu về 900 héc-ta nuôi cá. Đây là cơ sở để loại bỏ tình trạng gây nhiễu, thao túng giá trên thị trường cá tra xuất khẩu.

Sau gần 15 năm xuất khẩu, cá tra được nhận định là mặt hàng xuất khẩu chiến lược của quốc gia. Dù trước mắt nuôi và xuất khẩu cá tra vẫn đối diện nhiều thách thức. Nhưng việc “định vị được bản đồ” vùng nuôi cá tra sẽ là tiền đề quan trọng để nghề nuôi và xuất khẩu cá tra phát triển bền vững.

MUA GÌ

Đắk Lắk: Giá phân bón ổn định

Bà con nông dân các tỉnh Tây Nguyên đang bước vào mùa mưa, đây là thời điểm thích hợp cho việc chăm sóc, bón phân cho cây trồng sau mùa thu hoạch. Hiện tỉnh Đắk Lắk có hàng trăm loại mẫu phân sản xuất trong nước khác nhau được đưa ra thị trường, đó là chưa kể các loại phân NK từ nước ngoài. Các sản phẩm này được cung ứng đến tận các vùng nông thôn (thông qua các đại lý), phục vụ nhu cầu tiêu dùng của bà con nông dân. Chủ cửa hàng kinh doanh buôn bán phân bón ở huyện Cư Kuin cho biết: Nhìn chung năm nay thị trường phân bón ở đây ổn định, giá cả không tăng nhiều. Cụ thể, giá phân được các đại lý đưa ra là: Loại phân DAP (TQ) hạt xanh bao tiếng Anh có giá 12.800 đồng/kg; phân DAP (TQ) hạt nâu tiếng Anh giá 10.600 đồng/kg; Urê (TQ) hạt trong 8.900 đồng/kg; UREA (TQ) hạt đục 8.950 đồng/kg; Urê Phú Mỹ hạt trong 8.100 đồng/kg; Kali (Israel) hạt 8.550 đồng/kg; Kali (Nga) bột “màu đỏ” 8.100đ/kg; SA (Nhật) trắng 4.300đ/kg; SA (TQ) hạt nhuyễn 3.200 đồng/kg.

Gia Lai: Giá rau xanh tăng cao

Thời gian vừa qua, trên địa bàn tỉnh Gia Lai liên tục có mưa lớn nên giá các loại rau gia vị và rau xanh tăng cao. Vựa rau An Phú (TP. Pleiku) không chỉ là nơi cung cấp rau xanh cho người dân địa phương mà còn cho nhiều tỉnh khác. Cách đây 1 tuần, giá rau xà lách nông dân bán cho thương lái chỉ có 2.500 đồng/kg thì nay là 9.000 đồng/kg; dưa leo trước 2.500 đồng/kg, nay là 5.000 đồng/kg; đậu cô-ve trước là 6.000 đồng/kg, thì nay đã lên 9.000 đồng/kg. Theo một tiểu thương bán rau tại chợ Hoa Lư, một tuần nay, giá các loại rau, củ, quả bán lẻ đã tăng khá. Cụ thể, rau xà lách tăng từ 15.000 đồng/kg lên 20.000 đồng/kg; dưa leo từ 9.000 đồng/kg lên 13.000 đồng/kg. Thực tế vựa rau An Phú chỉ cách trung tâm thành phố Pleiku chừng 10 cây số, song người nông dân vẫn không thể nào được hưởng đúng và đầy đủ thành quả do mình một nắng hai sương làm ra. Bởi sản phẩm mà họ làm ra bán cho những thương lái tại đồng ruộng rất rẻ mạt, trong khi đó các tiểu thương bán lẻ cho người tiêu dùng giá cao ngất ngưởng.

Đồng Nai: Giá ngô thương phẩm giảm

Dù Đồng Nai chưa bước vào mùa thu hoạch rộ ngô vụ hè thu nhưng giá ngô thương phẩm hiện đang sụt giảm, trong khi đó trồng ngô lấy thân lại được giá... Tại xã Xuân Tây, huyện Cẩm Mỹ, ngô bắp tươi bán tại ruộng giá 3.600 đồng/kg, trong khi trước đây giá lên tới 3.900 - 4.100 đồng/kg ngô tươi. Bà con xã Lang Minh, huyện Xuân Lộc đang thu hoạch ngô, sản lượng không nhiều mà giá đã thấp, so thời điểm này năm ngoái giá ngô tươi giảm khoảng 200 - 300 đồng/kg. Nếu giá xuống 3.000 - 3.200 đồng/ngô tươi thì bà con chỉ hòa vốn. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong 6 tháng đầu năm 2015, Đồng Nai nhập khẩu đến 1,1 triệu tấn ngô. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến giá ngô giảm. Trong khi người trồng ngô lấy hạt đang gặp khó về giá, thì người trồng ngô lấy thân từ 2 năm nay lại đang có thu nhập ổn định. Trồng 1 héc-ta ngô lấy thân nông dân có thể thu lãi 20 - 25 triệu đồng. Theo tính toán, nếu trồng ngô lấy bắp phải mất từ 90 - 100 ngày mới cho thu hoạch, còn lấy thân thời gian ngắn hơn chỉ có 80 ngày mà chi phí đầu tư ít hơn.

Kiên Giang: Khóm Tắc Cậu đắt hàng

Khóm Tắc Cậu (dứa) tại huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang thu hoạch trong thời điểm hiện nay giảm đáng kể nên người làm vườn thu hoạch đến đâu bán hết đến đó với giá tăng từ 30 - 40%. Tại ấp An Ninh, xã Bình An, bà con thu hoạch khóm mang ra khu vực cầu Cái Lớn - Cái Bé bán rất chạy mà lại được giá, từ 2.000 - 3.000 đồng/trái. Ngoài bán cho thương lái, người dân ở đây còn có thêm nguồn thu nhập hàng ngày nhờ mang khóm trong vườn ra bày bán ven quốc lộ cho khách qua đường với giá bình quân từ 8.000 - 10.000 đồng/trái. Dự báo ít ngày tới, giá khóm còn tăng cao hơn nữa vì vườn khóm khu vực này hết mùa thu hoạch. Ngoài bán trái tươi, người dân ở địa phương còn đầu tư các cơ sở sấy khô, nước ép, bánh kẹo tiêu thụ trong thị trường nội địa và xuất đi nước ngoài với các loại sản phẩm làm từ trái khóm, như mứt khóm, bánh khóm với giá dao động từ 80.000 - 100.000 đồng/kg.

BÁN GÌ

Trà Vinh: Giá cá lóc tăng

Sau một thời gian dài, giá cá lóc thương phẩm luôn ở mức thấp, điều kiện nuôi không thuận lợi khiến diện tích nuôi cá lóc trong tỉnh giảm mạnh. Tuy nhiên, gần hai tuần qua giá cá lóc tăng mạnh, nông dân lại ồ ạt mở rộng diện tích. Hiện cá lóc phương phẩm mua tại ao có giá từ 37.000 - 38.000 đồng/kg, người nuôi có lợi nhuận khá cao nhưng ít có sản phẩm để bán. Nguyên nhân giá cá lóc tăng cao là do thiếu hụt nguồn cung, do thời gian qua người nuôi cá luôn bị lỗ hoặc huề vốn nên diện tích nuôi giảm mạnh. Chỉ tính riêng tại tỉnh Trà Vinh, kể từ đầu năm đến nay địa phương chỉ thả nuôi gần 150 héc-ta, tức giảm trên 60 héc-ta, trong khi sản lượng chỉ đạt hơn 13.000 tấn, giảm gần một nửa so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, khi giá cá tăng lên, nông dân lại đổ xô thả cá bất chấp hạ tầng phục vụ sản xuất hạn chế vì nằm ngoài quy hoạch. Trước tình hình đó, ngành chuyên môn Trà Vinh khuyến cáo người dân chỉ thả rải vụ để tránh lặp lại tình trạng được mùa mất giá.

Hưng Yên: Nhãn lồng mất mùa


Vào trung tuần tháng 8 là mùa nhãn lồng Hưng Yên nhưng năm nay, nhãn lồng mất mùa khiến bà con thất thu. Nguyên nhân chủ yếu do thời tiết thất thường, đặc biệt là cơn mưa axit cuối tháng 2 đầu tháng 3 vừa qua đã khiến cho hoa nhãn bị hỏng. Những cây nhãn ra hoa vào đúng dịp này, coi như là không đậu được quả nào. Ngoài tình trạng mất mùa do thời tiết khắc nghiệt thì sâu bệnh cũng là lý do khiến cho người nông dân trồng nhãn ở đây phải đau đầu. Đa số những cây nhãn không được chăm sóc tử tế thì thường bị các loại sâu bệnh như bọ xít, sâu đục thân, chuột và đặc biệt là rệp trắng phá hoại. Hiện tại, sản lượng nhãn bị sụt giảm nghiêm trọng do thời tiết và sâu bệnh nên người nông dân chỉ còn biết trông cậy vào giá nhãn. Nếu tính theo giá bán buôn như năm ngoái trung bình 25.000 đồng/kg thì nguồn thu cũng theo đó mất đi một nửa. Trừ công chăm sóc, thuê nhân công thì số tiền lãi thu được chẳng là bao.

Tây Ninh: Heo thịt rớt giá

Liên tục trong gần 2 tháng qua, giá heo thịt giảm từ 4,7 triệu đồng/tạ xuống còn 3,4 - 4 triệu đồng/tạ. Hiện nhiều hộ chăn nuôi heo “tiến thoái lưỡng nan”, bởi heo đến thời kỳ xuất chuồng gặp phải lúc giá quá thấp, bán thì lỗ mà giữ lại chờ giá lên thì tốn thêm nhiều chi phí.
Ở huyện Châu Thành hiện có gần 10 trang trại nuôi heo quy mô lớn. Hầu hết các trang trại này đang hết sức lo âu vì giá heo quá thấp so với chi phí đầu tư. Đối với những hộ chăn nuôi heo nhỏ lẻ thì càng điêu đứng hơn. Bởi lẽ hầu hết đều nuôi heo tỷ lệ nạc thấp, thương lái chỉ mua ở mức giá từ 3,4 - 3,6 triệu đồng/tạ. Trong khi đó giá thức ăn thì vẫn ở mức cao gần 4 triệu đồng/tạ. Hiện nay, chỉ có những cơ sở chăn nuôi heo theo kiểu gia công là không bị ảnh hưởng nhiều đến việc giá heo thịt giảm mạnh. Bởi mọi chi phí đầu tư về con giống, thức ăn và cả khâu tiêu thụ đã có công ty lo, trang trại chỉ bỏ công chăm sóc và hưởng tiền theo trọng lượng của heo khi xuất chuồng. Còn chuyện giá cả heo thịt bao nhiêu thì người chăn nuôi không phải lo. Thực tế đó cho thấy, người chăn nuôi nên quan tâm đến mô hình liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp để được đầu tư con giống, thức ăn và bao tiêu sản phẩm, không phải nơm nớp lo âu về chuyện giá cả.

Gia Lai: Đậu đen, đậu xanh mất mùa, giá giảm

Những ngày này, nông dân xã Lơ Ku, huyện Kbang, Gia Lai đang khẩn trương thu hoạch đậu đen, đậu xanh, bắp để chuẩn bị sản xuất vụ mới. Tuy nhiên, do hạn hán kéo dài đã khiến cho nhiều diện tích đậu xanh, đậu đen không sinh trưởng, phát triển tốt. Đến lúc trổ bông lại gặp phải gió Đông ảnh hưởng đến quá trình thụ phấn, dẫn đến năng suất giảm. Cây đậu còi cọc, thấp bé làm ảnh hưởng đến năng suất thu hoạch. Hạt đậu nhỏ, không được chắc và bị hỏng khá nhiều. Hộ nào đầu tư trồng nhiều thì bỏ công thu hoạch để vớt vát chút vốn, còn hộ nào trồng ít thì chẳng muốn thu. Giá đậu cũng giảm từ 10.000 – 12.000 đồng/kg so với cùng kỳ năm. Hiện tại giá đậu chỉ dao động từ 15.000 - 17.000 đồng/kg, tùy theo chất lượng đậu.

LƯU Ý CẢNH BÁO

Bảo vệ thủy sản nuôi khi mưa lũ

Để hạn chế tác động xấu của môi trường đến sức khỏe tôm cá nuôi và nguy cơ thất thoát tài sản, sản phẩm thủy sản trong ao đầm, lồng nuôi do ảnh hưởng bất thường của thời tiết và mưa lũ trong tình hình hiện nay, Báo Công Thương – Chuyên đề DTTS & MN khuyến cáo bà con một số biện pháp cần tiến hành.

Phòng bệnh cho động vật thủy sản

- Khi có hiện tượng cá, tôm nổi đầu cần xác định nguyên nhân là do đâu, nếu là do thiếu ô-xy, cần tăng quạt nước hoặc phun nước, giảm lượng thức ăn, thay một phần nước ao, hoặc cấp thêm nước mới vào ao, tiến hành san thưa để giảm bớt mật độ. Đối với ao nuôi sau mỗi lần thay nước người nuôi phải xử lý nước bằng cách tạt vôi bột (vôi nông nghiệp) với liều lượng 3kg/m3 nước để làm cho nước trong sạch. Theo dõi mức nước, màu nước trong ao để kịp thời điều chỉnh. Bảo đảm môi trường ao nuôi cho cá, tôm trong sạch.

- Đối với nuôi cá lồng, bè cần sử dụng hoá chất treo trong lồng/bè để khử trùng môi trường nước, diệt các tác nhân gây bệnh cho cá nuôi. Sử dụng vôi bột đựng trong bao tải treo ở đầu nguồn nước hoặc khu vực cho ăn trong các lồng bè. Treo túi cách mặt nước khoảng 1/3 - 1/2 độ sâu của nước trong lồng/bè. Liều lượng sử dụng là 2 - 4 kg vôi/10m3 nước. Khi vôi tan hết lại tiếp tục treo túi khác. Hoặc sử dụng hóa chất có thành phần chính là Tricloisoxianuric axit đựng trong túi vải treo trong lồng, bè (vị trí và độ sâu treo như túi vôi). Liều lượng sử dụng là 50g/10m3 nước, khi thuốc tan hết thì bổ sung thuốc mới.

- Tăng cường sức đề kháng cho động vật thủy sản như bổ sung vitamin C trộn vào thức ăn cho cá ăn hàng ngày. Hoặc sử dụng chế phẩm sinh học probiotic và enzyme tổng hợp để tăng cường tiêu hóa và bảo vệ đường ruột.
Tránh thất thoát khi mưa, lũ

- Đối với ao nuôi cá nước ngọt

Bờ ao phải đắp cao hơn mức nước cao nhất ít nhất 0,4 - 0,5m trở lên. Bố trí đặt cống để chủ động xả nước trong ao, đề phòng nước tràn bờ; chuẩn bị lưới, đăng chắn, dụng cụ cuốc xẻng gia cố sửa chữa hệ thống đê bờ bao, cống khi có tình huống xấu xảy ra. Có thể dùng lưới nylon cùng với các cột tre gỗ vây xung quanh ao để tránh cá đi mất khi nước dâng cao, tràn bờ. Đồng thời, đầm nện chắc chắn, tránh rò rỉ, nước tràn bờ. Cần phát quang cây xung quanh bờ đê, để tránh cành lá rơi vào ao làm ô nhiễm ao nuôi và đề phòng khi có gió lớn cây đổ có thể làm vỡ đê bao sẽ làm thất thoát cá.

- Đối với nuôi cá hồ chứa

Thường xuyên kiểm tra lồng nuôi cá, tu sửa lại những chỗ yếu, dễ bị hư hỏng, vệ sinh tẩy dọn lồng sạch sẽ để đảm bảo nước lưu thông nhanh và môi trường trong sạch; củng cố lại các dây neo, di chuyển lồng, bè nuôi vào những nơi kín gió, dòng chảy nhẹ để tránh khi bão gió lớn làm vỡ lồng, bè. Với loại hình nuôi vây trong hồ chứa, thời kỳ chuẩn bị thu hoạch, cũng như đang nuôi cần phải kiểm tra lại đăng, lưới chắn. Đăng lưới chắn phải được thiết kế hình chữ V để tăng diện tích thoát nước nhanh nơi cổng xả tràn nhằm tránh cá thoát ra ngoài khi có lũ lụt lớn xảy ra.

- Nuôi cá ruộng lúa

Khi cá đạt kích cỡ thương phẩm thì tranh thủ thu hoạch, tránh thất thoát khi có bão, lũ xảy ra. Gia cố lại bờ, bờ bao chắc chắn không rò rỉ và cao hơn mực nước cao nhất 0,5 mét để vượt lũ, xung quanh ruộng nuôi bố trí nhiều cống thoát nước, mương thoát nước, đặt lưới nylon vây quanh khu vực nuôi, chuẩn bị máy bơm tiêu úng khi cần thiết.

- Đối với nuôi tôm nước lợ

Để hạn chế hiện tượng giảm độ mặn đột ngột trong ao nuôi tôm, người nuôi phải có kế hoạch điều tiết nước như trước khi mưa to cần phải lấy nước có độ mặn thích hợp vào ao và để mực nước trong ao cao nhất. Trong khi mưa nên tránh các hoạt động làm xáo trộn nước trong ao nuôi và sau khi mưa cần nhanh chóng rút bớt nước ở tầng mặt của ao bằng cách tháo các cánh phai của cống thoát. Những vùng nuôi tôm quảng canh cải tiến thân thiện môi trường, nuôi theo hình thức đánh tỉa thả bù, người nuôi khẩn trương tận thu các sản phẩm: tôm; cua; cá, tránh thất thoát sản phẩm khi bão lụt xảy ra. Đối với các vùng đất bị chua phèn, rắc vôi quanh bờ phòng nước trôi phèn xuống làm biến động pH ao nuôi.
- Đối với nuôi thủy sản trên biển

Tiến hành thu hoạch trước mùa mưa lũ nếu cá, tôm đạt kích cỡ thu hoạch. Nếu không thể thu hoạch trước mùa mưa lũ, cần kiểm tra lại lồng bè, tu sửa lại những chỗ xung yếu, củng cố lại các dây neo, tìm vị trí an toàn để di chuyển lồng, bè vào những nơi kín gió, nơi không bị ảnh hưởng nước ngọt, dòng chảy nhẹ để tránh khi bão gió lớn xô đẩy làm vỡ lồng, bè.

NHẬN ĐỊNH THỊ TRƯỜNG


Quảng Nam: Mô hình nuôi đà điểu hộ gia đình gặp khó


Ba năm trở lại đây, Trung tâm Giống đà điểu Quảng Nam đã dừng việc đầu tư mở rộng nuôi đà điểu theo hình thức hộ, do đầu ra khó tiêu thụ và con giống khan hiếm. Cách đây 7 năm, phong trào nuôi đà điểu phát triển rầm rộ từ huyện Núi Thành ra đến Duy Xuyên. Đặc biệt, xã vùng cát Tam Phú (thành phố Tam Kỳ). Thế nhưng, đến nay chuồng trại hầu như không còn thả nuôi đà điểu, thay vào đó là những con vật nuôi như bò, heo. Nguyên nhân được các hộ nuôi giải thích là do giá cả bấp bênh, lãi ít, cộng với việc đà điểu “khó nuôi, dễ chết”.

Tuy nhiên, cũng có nơi người dân mong muốn đầu tư phát triển nuôi đà điểu lại gặp khó khăn về con giống. Họ cho rằng, Trung tâm Giống đà điểu Quảng Nam chỉ muốn độc quyền con giống, độc quyền cung cấp sản phẩm thịt ra thị trường. Vì không được cung cấp giống nên dù người dân có muốn nuôi cũng không được nên nhiều trang trại đang chuyển sang nuôi heo rừng và bò lai.

Về phía Trung tâm Giống đà điểu Quảng Nam lại cho rằng, do cách nuôi của người dân không đúng quy trình kỹ thuật, kém hiệu quả, khó liên kết làm ăn nên mô hình nuôi đà điểu theo hình thức hộ đã dừng lại hơn 3 năm nay. Trong khi đó, trung tâm đang tập trung đầu tư phát triển trang trại ở Ninh Hòa (Khánh Hòa) nên cần lượng con giống lớn. Vì vậy, hiện Trung tâm chỉ liên kết, hợp tác với hộ dân trồng rau xanh, cung cấp thức ăn cho đà điểu. Mỗi ngày trung tâm tiêu thụ 4 - 6 tấn rau xanh mua từ các hộ trồng. Đến nay, người dân trồng khoảng 10 héc-ta rau xanh bán làm thức ăn cho đà điểu.

Thừa Thiên Huế: Nỗi lo trước vụ tôm mới

Hiện trên địa bàn Thừa Thiên Huế có khoảng 658 héc-ta chuyên nuôi tôm, sản lượng bình quân 7.600 tấn; gần 4.000 héc-ta nuôi xen ghép tôm và các đối tượng thủy sản khác.

Đáng chú ý là diện tích nuôi tôm chân trắng khoảng 424 héc-ta, chủ yếu ở vùng cát huyện Phong Điền. Năng suất tôm chân trắng đạt rất cao, bình quân 10 tấn/héc-ta, sản lượng đạt trên 6.000 tấn, chiếm khoảng 80% sản lượng tôm nuôi toàn tỉnh. Năng suất, sản lượng cao nhưng lợi nhuận của người nuôi rất thấp. Điều đáng nói là với diện tích và sản lượng nói trên nhưng trên địa bàn toàn tỉnh có 3 - 4 doanh nghiệp lớn thu mua và chế biến thủy sản nhưng không có đơn vị nào trực tiếp thu mua sản phẩm của người dân. Hầu hết, các hộ nuôi đều bán cho các lái buôn, đại lý nhỏ lẻ, qua nhiều khâu trung gian mới đến các doanh nghiệp nên giá tôm tại chỗ thường rất thấp.

Chính vì thế, kể từ vụ nuôi đầu tiên đến nay, người dân các vùng nuôi tôm ở Thừa Thiên Huế vẫn luôn phải tìm mối tiêu thụ qua các thương lái. Nắm được điểm yếu này, các thương lái tìm đủ cách để ép giá nông dân. Vì không còn cách nào khác nên người dân phải bán để trả nợ tiền mua thức ăn, con giống, chi phí điện nước, chấp nhận lãi thấp, thậm chí thua lỗ. Mặc dù khó khăn triền miên, nhưng nhiều hộ nuôi tôm vẫn quyết tâm nuôi tôm với hy vọng cách vài vụ, chỉ cần trúng một vụ, cộng thêm tôm được giá thì chắc chắn có lãi, trả được nợ.

Thiết nghĩ, để đảm bảo có lãi và phát triển bền vững, vấn đề cấp thiết hiện nay đối với nghề nuôi tôm ở Thừa Thiên Huế cần sự vào cuộc, hỗ trợ của các cơ quan, ban, ngành cấp trên, chính quyền địa phương trong việc liên kết, hợp đồng với các doanh nghiệp. Cùng với đó, các ngành chức năng ở địa phương cũng cần giám sát chặt chẽ để bà con không phát triển mạnh diện tích nuôi thả tôm thẻ chân trắng. Vì không riêng tại Thừa Thiên Huế mà nhiều địa phương trên cả nước cũng đang rơi vào tình trạng thừa ế mặt hàng thủy sản này do phát triển ồ ạt.

CHUYỂN ĐỘNG THỊ TRƯỜNG

Vĩnh Long: Nông dân điêu đứng do giá khoai giảm mạnh

Tại huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long, giá khoai liên tục sụt giảm và được xem là mức thấp nhất trong khoảng 10 năm trở lại đây.

Khoai lang tím chủ yếu được xuất thô sang thị trường Trung Quốc theo đường tiểu ngạch. Tuy nhiên gần đây, thị trường này giảm mua đột ngột khiến giá giảm mạnh. Tình cảnh tương tự cũng xảy ra ở nhiều địa phương tại đồng bằng sông Cửu Long như Đồng Tháp, Cần Thơ... Mặc dù ngành nông nghiệp đã có khuyến cáo về sự bấp bênh của loại nông sản này nhưng vì có lúc giá khoai tăng cao nên bà con ồ ạt trồng, dẫn đến phá vỡ quy hoạch. Khi sản lượng dư thừa thì việc bị thương lái ép giá cũng là điều dễ hiểu.

Nếu như trước đây với mỗi tạ khoai lang, nông dân bán được với mức giá từ 500.000 - 700.000 đồng/tạ thì hiện tại, giá đã giảm xuống chỉ còn 60.000-100.000 đồng/tạ. Với giá này, nông dân bị lỗ vốn đầu tư và chi phí trả nhân công thu hoạch. Do giá quá thấp nên nhiều hộ không thu hoạch mà phun thuốc để phân hủy khoai và chuyển sang trồng loại lương thực khác. Một số hộ đang phải neo ruộng để chờ giá lên. Việc này làm đội giá thành sản xuất vì các hộ trồng khoai phải đầu tư thêm chi phí phun thuốc trừ sâu để giữ khoai bóng đẹp.

Trong 6 tháng đầu năm 2015, Vĩnh Long đã trồng hơn 7.000 héc-ta khoai, với giá thấp như vậy, nông dân ở đây đang bị lỗ hàng tỷ đồng. Do vậy, nhiều hộ nông dân đã chuyển sang trồng lúa. Theo quy hoạch tái cơ cấu của ngành nông nghiệp, diện tích khoai lang chỉ từ 4.000 - 5.000 héc-ta và trồng luân canh 2 vụ lúa 1 vụ khoai lang để đảm bảo vệ sinh đồng ruộng, diệt mầm bệnh và áp dụng khoa học kỹ thuật trong canh tác để giảm chi phí sản xuất, tăng hiệu quả. Tuy nhiên, thời gian qua nông dân ào ạt chuyển qua trồng khoai lang tím Nhật và trồng chuyên canh hết vụ này sang vụ khác đã phá vỡ quy hoạch.

Tiền Giang: Bà con nên cẩn trọng khi mở rộng diện tích trồng mít

Những ngày gần đây giá mít tại huyện Cai Lậy, Tiền Giang (địa phương được xem là “vương quốc” cây mít của tỉnh Tiền Giang) tăng nhẹ 2.000 - 3.000 đồng/kg so với tháng trước.

Mặc dù mức giá này vẫn nằm ở mức thấp nhưng có xu hướng tăng nhẹ cũng khiến người nông dân trồng mít phấn khởi hơn. Hiện nay những trái mít loại I có trọng lượng trên 10 kg/trái được thương lái thu mua với giá khoảng 7.000 - 8.000 đồng/kg (tùy đại lý), mít loại 2 có giá 5.000 - 6.000 đồng/kg, còn mít loại 3 cũng có giá 3.000 - 3.500 đồng/kg. So với tháng trước, giá mít các loại đã tăng hơn 2.000 đồng/kg nên người trồng mít phấn khởi vì tăng thêm thu nhập. Các đại lý chỉ cần vạt mít thấy múi đỏ, sơ trắng và đủ trọng lượng là xếp mít vào loại I và cân mít tính tiền.

Cách đây 2 năm, mít Thái siêu sớm từng được xem là một loại cây trồng dễ “làm giàu” vì kỹ thuật canh tác không quá khó, năng suất mít đạt 35 - 40 tấn/héc-ta (tùy theo tuổi vườn mít), nhất là giá mít có thời điểm lên đến 25.000 - 30.000 đồng/kg. Cá biệt có nông dân trồng mít với doanh thu hàng tỷ đồng/năm dẫn đến tình trạng nhà vườn ồ ạt trồng hàng nghìn héc-ta mít. Trong đó, diện tích trồng mít lớn nhất là các huyện Cai Lậy, Cái Bè, Châu Thành... Đến nay, diện tích mít này đã bắt đầu cho trái đồng loạt, sản lượng tăng khiến giá mít giảm mạnh. Chính vì giá mít thấp nên hiện nay một số nhà vườn sử dụng trái mít làm thức ăn nuôi thủy sản, gia cầm.

Trước đây, một số chuyên gia ngành nông nghiệp đã cảnh báo nguy cơ nguồn cung mít vượt cầu dẫn đến tình trạng giá giảm mạnh, Đến nay dự báo trên đã dần trở thành sự thật nên bà con nông dân cần rút kinh nghiệm phải suy tính kỹ khi quyết định nuôi trồng một loại cây, con nào đó.

CHỐNG BUÔN LẬU MUA BÁN GIAN LẬN

Thuốc bảo vệ thực vật Super indo: Lập lờ thương hiệu, lừa nông dân

Hiện nay trên thị trường có hơn 4.000 danh mục thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) cho phép lưu hành. Vì vậy, ngành chức năng khó kiểm soát được nhãn mác, nơi sản xuất... Điều này dẫn đến tình trạng kinh doanh, tự do sản xuất, buôn bán thuốc BVTV. Thuốc trừ sâu Super Indo là một điển hình của việc lập lờ nhãn hiệu, lừa nông dân.

Trong những năm gần đây. các công ty, đại lý kinh doanh thuốc BVTV mọc lên như nấm. Các loại thuốc BVTV đổ về nông thôn, bằng các chiêu trò để thu hút người nông dân như: mua một tặng một, giảm giá 15 – 30%; mua sản phẩm tặng quà… khiến người nông dân rất dễ bị lừa mua phải hàng giả, hàng kém chất lượng. Nắm bắt tâm lý người tiêu dùng, nhiều doanh nghiệp (DN) còn nhập hàng chất lượng kém từ Trung Quốc với giá rẻ, sau đó nhập nhằng với những tên thuốc có xuất xứ từ Âu, Mỹ, Nhật Bản hoặc các thương hiệu có uy tín để tìm cách móc túi nông dân.

Theo Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN&PTNT), trên địa bàn các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long có hàng trăm công ty và hàng ngàn đại lý thuốc BVTV đăng ký và các đại lý trôi nổi nên việc quản lý chất lượng cũng như thương hiệu bao bì, nhãn mác là rất khó. Chính vì vậy, nhiều DN, cơ sở sản xuất lợi dụng điểm này để sản xuất các loại thuốc BVTV nhái các sản phẩm có tên tuổi, thương hiệu trên thị trường.

Điển hình như, trên thị trường hiện nay đang xuất hiện hai loại thuốc trừ sâu Indosuper 150SC và super indo của hai DN khác nhau. Theo đó, Indosupe150SC (hoạt chất là Indoxacarb 150g/l) là sản phẩm thuốc trừ sâu của Công ty TNHH Phú Nông (Cần Thơ) đã được Cục BVTV cấp giấy chứng nhận số 911/13 SRCR ngày 22/4/2013. Tuy nhiên, trên thị trường cũng xuất hiện sản phẩm thuốc trừ sâu Super Indo (hoạt chất Indoxacarb 130g/l + Fipronil 38g/l) sản xuất ngày 19/11/2014 của Công ty thuốc BVTV Việt Trung đăng ký và đóng gói tại nhà máy ở khu công nghiệp Hạnh Phúc, huyện Đức Hòa (Long An).

Theo đại diện Công ty Phú Nông, khi phát hiện sản phẩm Super Indo trên thị trường có hình thức bề ngoài giống như sản phẩm IndoSuper của Phú Nông, công ty đã tra cứu trong danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng tại Việt Nam của Bộ NN&PTNT ban hành kèm theo Thông tư số 03/2015/TT-BNNPTNT ngày 29/01/2015. Theo đó tên thương mại của thuốc Super Indo (hoạt chất Indoxacarb 130g/l + Fipronil 38 g/l) mang số đăng ký 558/13 SRai không có tên trong danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng tại Việt Nam của Bộ NN&PTNT. Để bảo vệ thương hiệu công ty cũng như bảo vệ người tiêu dùng, Công ty Phú Nông đã gửi văn bản đến cơ quan chức năng xem xét.

Theo Chi cục BVTV Cần Thơ, tên thương mại của Super Indo là Bugergold 168SC, có hai hoạt chất là: Indoxacarb: 130g/l, Fipronil: 38g/l; chứ Super Indo không phải là tên thương mại. Như vậy, theo quy định thì nhãn chính là tên thương mại và nhãn phụ in bằng cỡ chữ thông thường rõ ràng, dễ đọc. Tuy nhiên, cỡ chữ của tên thương mại Bugergold 168SC của công ty này ghi rất nhỏ bằng 1.2 chữ theo quy định. Trong khi đó nhãn phụ “Super Indo” lại ghi rất to khiến người nông dân dễ hiểu nhầm đây là sản phẩm của công ty Phú Nông.

Cục BVTV Cần Thơ cũng cho rằng, việc nhập nhèm ghi nhãn này của Công ty Việt Trung đã không đúng quy định, vi phạm tại Điều 30, Nghị định 114/2013/NĐ-CP vi phạm về nhãn thuốc BVTV. Kiểu cạnh tranh không lành mạnh, nhập nhèm tên thương mại đã gây thiệt hại lớn cho Công ty Phú Nông và nhất là với bà con nông dân.

Viện Khoa học Sở hữu Trí tuệ (Bộ Khoa học và công nghệ) cũng kết luận: “Dấu hiệu SuperIndo và hình” gắn trên sản phẩm thuốc trừ sâu của Công ty Việt Trung đã xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu “Indosuper và hình” được bảo hộ của Công ty Phú Nông.

Cục BVTV cho biết, Cục sẽ chỉ đạo các chi cục địa phương rà soát các loại thuốc BVTV, loại bỏ những loại hàng nhái, hàng giả và nhập lậu không đảm bảo chất lượng. Tiếp tục có những giải pháp tuyên truyền cho bà con cách lựa chọn và sử dụng thuốc BVTV. Đồng thời, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, hạn chế thấp nhất tình trạng kinh doanh, sử dụng thuốc BVTV độc hại, kém chất lượng. Tuy nhiên, cách làm hiệu quả nhất chính là ý thức của người dân khi lựa chọn và sử dụng thuốc BVTV một cách hợp lý, an toàn.

BÀ CON CẦN BIẾT

Lưu ý khi trồng rau màu mùa mưa, bão, lũ

Bước vào mùa mưa bão cuộc sống của bà con dân tộc thiểu số vùng miền núi lại trở nên khó khăn hơn. Bà con vừa phải khẩn trương thu hoạch cây trồng, vừa tất bật tích trữ lương thực, chuẩn bị thuyền bè để sẵn sàng ứng phó với mưa lũ...

Đối với những địa phương thâm canh rau màu, bà con cần lưu ý đến một số yếu tố để quá trình trồng trọt đạt hiệu quả cao.

Trước mùa mưa

Bà con nên chọn đất trồng rau ở vị trí cao, có đào rãnh thoát nước và gần hệ thống kênh mương để thoát nước nhanh. Đối với một số loại cây trồng như cà chua, dưa leo, khổ qua… cần phải áp dụng biện pháp làm giàn. Trong khâu làm đất, không nên làm quá nhuyễn vì khi đất mịn ra gặp mưa to dễ dẫn đến đất bị kết lại, lèn đất mặt nén chặt xuống sẽ làm cho rau bị nghẹt rễ ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển của cây rau. Mùa mưa thường thiếu ánh sáng, khả năng quang hợp kém, bà con nông dân nên chọn trồng các loại rau lá nhỏ, có bộ tán lá gọn, thời gian sinh trưởng ngắn, nhanh thu hoạch.

Trong mùa mưa


Bà con nên bón thêm vôi khoảng 30 - 40 kg/sào nhằm khắc phục độ chua, góp phần tiêu diệt các mầm bệnh trong đất, cung cấp thêm lượng can xi để cây trồng cứng cáp, phòng chống có hiệu quả đối với các bệnh thường gặp trên rau màu về mùa mưa như thối rễ, thối trái… Sau khi bón vôi phải tháo nước vào ngập hết luống từ 1 - 2 ngày để tiêu độc, rửa phèn rồi rút cạn nước cho đến lúc thật khô mới bón lót và làm đất, lên luống trở lại.

Ngoài ra, có thể bón thêm các loại phân hữu cơ khác như phân xanh, các chế phẩm sinh học nhằm tăng cường khả năng chống chịu bệnh cho cây rau và tăng năng suất hơn, mức độ xanh tươi và thời gian rau xanh lâu ngày hơn.
Tăng cường chăm sóc, bấm ngọn để cây ra các nhánh phụ nhằm hạn chế chiều cao tránh đổ ngã.

Đối với rau lấy lá thì số lượng lá được nhiều hơn. Rau lấy quả thì tỉa bỏ các lá bị sâu bệnh, các cành, nhánh vô hiệu gần gốc để tạo độ thông thoáng cho cây, giảm độ ẩm, góp phần hạn chế sự phát sinh, phát triển và gây hại của sâu bệnh.
Thường xuyên thăm đồng và chủ động áp dụng các biện pháp phòng trừ kịp thời không để dịch bệnh lây lan trên diện rộng.

Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật cần chú ý chọn những loại thuốc đặc hiệu, áp dụng nguyên tắc 4 đúng khi phòng trừ. Ưu tiên sử dụng các loại thuốc đặc hiệu, phun phòng hoặc phun trừ tập trung, đúng lúc. Cần chú ý thời gian cách ly khi bón phân hoặc phun thuốc trừ sâu trước khi thu hoạch theo quy định để đảm bảo an toàn thực phẩm.

Sau mùa mưa

Khi bị ngập nước, đất bị bão hòa nước, các cây ngắn ngày (trừ lúa), cây ăn quả bị thiếu ôxy để hô hấp, một số cây trồng bị ngộ độc do khí CO2 làm rễ cây bị thối, khi bị ngập lâu ngày rễ cây không còn khả năng phục hồi và bị chết. Do vậy, với các loại cây ngắn ngày như đậu tương, bầu bí, rau hoa các loại cần tiêu nước kịp thời. Cây còn khả năng hồi phục, chưa bị thối, chết có thể phục hồi bằng cách phun phân bón lá Đầu Trâu 502, định kỳ 5 - 7 ngày/lần. Tưới nhẹ phân lân và đạm hoặc phân NPK 13-13-13+TE Đầu Trâu, pha 50 - 100 gam/bình 20 lít nước rồi tưới vào vùng rễ cây.

HÀNG VIỆT

Tây Nguyên: Xây dựng thương hiệu chung cho cà phê, hồ tiêu

Các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Lâm Đồng là vùng trọng điểm sản xuất cà phê, hồ tiêu xuất khẩu chủ lực không chỉ của Tây Nguyên, mà còn của cả nước nhưng lại chưa có thương hiệu chung để người tiêu dùng trong ngoài nước dễ dàng nhận biết.

Có danh tiếng, thiếu thương hiệu

Hiện nay, trên địa bàn các tỉnh khu vực Tây Nguyên có trên 573.400 héc-ta cà phê, chiếm trên 89% diện tích cà phê của cả nước, với sản lượng mỗi năm đạt từ 1,2 đến trên 1,3 triệu tấn cà phê nhân, chiếm trên 90% sản lượng cà phê xuất khẩu của cả nước. Hồ tiêu có diện tích trên 43.955 héc-ta, chiếm gần 52% diện tích của cả nước, với sản lượng mỗi năm đạt từ 80.000 tấn trở lên, chiếm gần 55% sản lượng tiêu xuất khẩu của cả nước. Thời gian qua, để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, các nông hộ sản xuất cà phê, hồ tiêu ở Tây Nguyên đã áp dụng tốt các biện pháp khoa học kỹ thuật vào thâm canh cây cà phê, hồ tiêu nên năng suất đạt khá cao, cà phê đạt bình quân 22,2 tạ nhân/héc-ta, tiêu đạt 21,6 tạ/héc-ta, được xếp vào loại cao nhất thế giới. Nhiều nông hộ sản xuất cà phê đưa các giống cà phê mới năng suất cao, kháng được bệnh gỉ sắt, nhân to vào trồng tái canh. Bà con cũng chú trọng mở rộng diện tích sản xuất cà phê có chứng nhận theo các bộ quy tắc của Utz Certify, 4C, Rainforest Aliance…

Tuy nhiên, diện tích cà phê, hồ tiêu ở Tây Nguyên mở rộng quá nhanh, không đúng theo quy hoạch. Có một tỷ lệ lớn vườn cây (cà phê, hồ tiêu) già cỗi hết chu kỳ kinh doanh, cần phải trồng tái canh, nhưng các nông hộ gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng, thiếu giống tốt… Trong khi đó phần lớn các nông hộ sản xuất cà phê, hồ tiêu theo kinh nghiệm, chưa được đào tạo đầy đủ về kỹ thuật, quản trị cơ sở sản xuất, kiến thức thị trường nên năng lực hạn chế, dẫn đến còn áp dụng nhiều thực hành sản xuất không phù hợp như lạm dụng hóa chất, thu hoạch không đúng kỹ thuật, sử dụng giống không đảm bảo nên chất lượng sản phẩm không đồng đều. Việc tổ chức liên kết theo chuỗi giá trị trong sản xuất chế biến tiêu thụ cà phê, hồ tiêu còn nhiều hạn chế. Hợp tác xã, tổ hợp tác có vai trò kém, chưa hấp dẫn sự tham gia của các nông hộ, chưa hỗ trợ được cho các thành viên và là đầu mối cho liên kết doanh nghiệp với các nông hộ… Diện tích, sản lượng cà phê, hồ tiêu ở Tây Nguyên tăng nhanh, nhưng việc xây dựng thương hiệu chung cho hai sản phẩm này lại chưa được các địa phương quan tâm. Sản phẩm đều xuất khẩu chủ yếu ở dạng hạt thô và chưa có thương hiệu nên giá trị gia tăng còn thấp.

Tạo thương hiệu để tăng giá trị xuất khẩu

Theo Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, hiện nay, Tây Nguyên chỉ mới có chứng nhận Chỉ dẫn địa lý cho cà phê Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk). Chứng nhận này cũng chỉ mới cấp cho hạt cà phê chứ không phải cho chung cà phê chế biến. Việc khai thác giá trị thương mại của chứng nhận chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma Thuột này chưa cao, kém hiệu quả vì chỉ mới một phần diện tích, chủ yếu là cà phê Buôn Ma Thuột và một vài huyện của tỉnh Đắk Lắk được cấp quyền sử dụng chứng nhận chỉ dẫn địa lý, số lượng cơ sở đăng ký sử dụng nhãn hiệu chỉ dẫn địa lý còn quá ít. Chứng nhận nhãn hiệu tập thể cho hồ tiêu Chư Sê (Gia Lai) ít có giá trị thương mại quốc tế do nhiều nước không chấp nhận loại nhãn hiệu này. Vì vậy, các nhà khoa học, nhà quản lý và các chuyên gia ngành nông nghiệp, thương mại, dịch vụ đều cho rằng, các tỉnh Tây Nguyên cần sớm xây dựng thương hiệu chung cho cà phê, hồ tiêu làm công cụ để quản lý diện tích, quy hoạch vùng nguyên liệu và liên kết vùng, góp phần phát triển cà phê, hồ tiêu bền vững, đáp ứng yêu cầu ngày càng tốt hơn cho thị trường xuất khẩu trên thế giới…

Ngoài ra, theo Tiến sỹ Hoàng Vũ Quang, Phó Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, cùng với việc sớm xây dựng thương hiệu chung cho cà phê, hồ tiêu vùng Tây Nguyên, các tỉnh Tây Nguyên nhanh chóng rà soát, điều chỉnh quy hoạch, tổ chức lại sản xuất, liên kết theo chuỗi giá trị từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm với quản trị hiện đại, hệ thống hạ tầng đồng bộ, sản phẩm có thương hiệu, chứng nhận chất lượng và an toàn thực phẩm, gắn với quản trị môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu… nhằm mục tiêu đưa ngành hàng cà phê, hồ tiêu xuất khẩu tập trung quy mô lớn, hiện đại, có tính cạnh tranh quốc tế cao.

Nam Sơn (Báo Công thương và Cổng Thông tin Điện tử UBDT phối hợp thực hiện)