Hành trình 70 năm Ban Tôn giáo Chính phủ
1 ngày trước | Lượt xem: 420 In bài viết |Ngày 01/3/2025, một cột mốc lịch sử đã được ghi nhận khi Ban Tôn giáo Chính phủ chuyển từ trực thuộc Bộ Nội vụ về Bộ Dân tộc và Tôn giáo. Sự kiện này không chỉ đánh dấu bước chuyển mình trong cơ cấu tổ chức mà còn là minh chứng cho chặng đường 70 năm hình thành và phát triển của cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Từ những ngày đầu thành lập, Ban Tôn giáo Chính phủ đã góp phần quan trọng vào việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và xây dựng một đất nước hòa bình, thịnh vượng.
I. Chặng đường hình thành và phát triển
1.1. Giai đoạn 1945-1986: Khởi nguồn và củng cố bộ máy
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Hiến pháp 1946 đã lần đầu tiên ghi nhận quyền tự do tín ngưỡng của công dân. Tuy nhiên, trong bối cảnh kháng chiến đầy cam go, việc tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo còn sơ khai, chủ yếu lồng ghép trong các cơ quan dân vận, hành chính.
Bước ngoặt lịch sử diễn ra vào ngày 02/8/1955, khi Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký ban hành Nghị định số 566/TTg về việc thành lập Ban Tôn giáo thuộc Ban Nội chính Chính phủ, trực thuộc Thủ tướng Phủ - tiền thân của Ban Tôn giáo Chính phủ ngày nay, đồng thời thiết lập hệ thống Ban Tôn giáo trực thuộc các Ủy ban Hành chính khu, các Ủy ban hành chính tỉnh, cũng là tiền thân của hệ thống ngành Quản lý nhà nước về tôn giáo.
Đây chính là viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho sự ra đời chính thức của ngành quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam. Nhiệm vụ ban đầu của Ban là nghiên cứu, tham mưu và phối hợp thực hiện các chủ trương, chính sách của Chính phủ về tôn giáo, tiêu biểu là tham mưu ban hành Sắc lệnh 234/SL ngày 14/6/1955 của Chủ tịch nước.
Sau năm 1975, đất nước thống nhất, Ban Tôn giáo tiếp tục hoạt động, tham mưu cho Chính phủ triển khai các chính sách tôn giáo thống nhất trên cả nước, điển hình là Nghị định 297/CP. Dù đối mặt với nhiều thách thức của thời kỳ bao cấp, bộ máy vẫn được duy trì và củng cố.
Nghị định số 566/TTg ngày 02/8/1955 của Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc thành lập Ban Tôn giáo trực thuộc Thủ tướng phủ
1.2. Giai đoạn 1986 đến nay: Đổi mới, hoàn thiện và chuyên nghiệp hóa
Công cuộc Đổi mới từ năm 1986 đã mang đến một luồng gió mới, cởi mở hơn trong quan điểm và chính sách đối với tôn giáo. Nhận thức sâu sắc về vai trò của tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng và Nhà nước đã tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ cấu tổ chức.
Năm 2003, cơ quan chính thức được đổi tên thành Ban Tôn giáo Chính phủ, khẳng định vị thế cấp Chính phủ. Đến năm 2007, Ban Tôn giáo Chính phủ được chuyển sang trực thuộc Bộ Nội vụ, giúp tăng cường tính thống nhất trong quản lý các vấn đề nội chính, hành chính.
Ngày 27/5/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 445/QĐ-TTg về việc hàng năm lấy ngày 02/8 là “Ngày truyền thống ngành quản lý nhà nước về tôn giáo”. Đó là sự khẳng định vị trí, vài trò của ngành Quản lý nhà nước về tôn giáo trong hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước và cũng là nguồn động viên tinh thần rất lớn đối với đội ngũ công chức, viên chức, người lao động ngành Quản lý nhà nước về tôn giáo.
Giai đoạn này chứng kiến sự ra đời của các văn bản pháp luật quan trọng:
+ Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004, cụ thể hóa quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
+ Đặc biệt, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 (có hiệu lực từ 01/01/2018), được đánh giá là một bước tiến vượt bậc, tạo hành lang pháp lý toàn diện và minh bạch nhất cho hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam.
+ Các Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo hướng dẫn thi hành luật: Nghị định số 162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017, Nghị định số 95/2023/NĐ-CP ngày 29/12/2023 có hiệu lực thi hành từ ngày 30/3/2024 thay thế Nghị định số 162/2017/NĐ-CP.
Từ 01/3/2025: Ban Tôn giáo Chính phủ trực thuộc Bộ Dân tộc và Tôn giáo là bước đi chiến lược nhằm tích hợp quản lý công tác dân tộc và tôn giáo, tạo ra một cơ quan đầu mối thống nhất, chuyên sâu, hướng tới hiệu quả cao hơn trong quản trị quốc gia.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính trao Quyết định thành lập Bộ Dân tộc và Tôn giáo, ngày 01/3/2025
Trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau, dù ở giai đoạn nào, trong hoàn cảnh khó khăn nào, tuy chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và tên gọi có sự thay đổi theo yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng mỗi thời kỳ, song, dưới sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, cấp uỷ chính quyền các cấp, sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ban, ngành liên quan và sự nỗ lực của công chức, viên chức, người lao động ngành Quản lý nhà nước về tôn giáo các thời kỳ, Ban Tôn giáo Chính phủ và ngành Quản lý nhà nước về tôn giáo đã không ngừng phấn đấu, xây dựng và trưởng thành, vượt qua muôn vàn khó khăn, thực hiện nhiệm vụ tham mưu Đảng, Nhà nước các chủ trương, chính sách pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; thực hiện việc quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo; vận động, động viên đồng bào theo các tôn giáo tham gia công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; góp phần đấu tranh chống các thế lực xấu lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta.
II. Vai trò của Ban Tôn giáo Chính phủ và ngành quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo
- Tham mưu chiến lược về chính sách và pháp luật: Ban Tôn giáo Chính phủ, với đội ngũ cán bộ chuyên sâu, đã và đang là cơ quan nòng cốt trong việc nghiên cứu, tham mưu cho Đảng và Nhà nước ban hành, hoàn thiện các chủ trương, chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Mọi văn bản quan trọng, từ Nghị quyết của Trung ương đến Luật của Quốc hội và Nghị định của Chính phủ, đều có sự tham mưu, đóng góp tích cực của Ban.
- Thực thi và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật: Ngành quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo trực tiếp triển khai, hướng dẫn và giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo ở mọi cấp.
Từ việc cấp phép cho các hoạt động tôn giáo, công nhận tổ chức tôn giáo, giải quyết các vấn đề liên quan đến chức sắc, cơ sở thờ tự; tiếp nhận các thông báo liên quan đến hoạt động tôn giáo như phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi nhiệm chức sắc, chức việc; các thông báo liên quan đến cơ sở đào tạo tôn giáo; việc tiếp nhận tài trợ từ tổ chức, cá nhân nước ngoài của các tổ chức tôn giáo, đến việc xử lý các vi phạm pháp luật, ngành luôn đảm bảo mọi hoạt động diễn ra trong khuôn khổ, tạo môi trường pháp lý ổn định cho các tôn giáo phát triển, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của Hiến pháp và pháp luật; thực hiện công tác cải cách hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.
Đồng thời, tổ chức phổ biến, tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cho chức sắc, chức việc, tín đồ các tổ chức tôn giáo; bồi dưỡng, tập huấn đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo.
Ban Tôn giáo Chính phủ vinh dự đón nhận Huân chương Độc lập hạng Nhất năm 2015
- Cầu nối giữa Nhà nước và các tổ chức tôn giáo: Ban Tôn giáo Chính phủ và các cơ quan quản lý tôn giáo địa phương là kênh liên lạc chính thức, quan trọng giữa Nhà nước và các tổ chức tôn giáo, thông qua việc thường xuyên lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của chức sắc, tín đồ, kịp thời giải quyết các vướng mắc, tạo sự đồng thuận và tin tưởng giữa các tổ chức tôn giáo, chức sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo với các cấp chính quyền.
- Phát huy giá trị văn hóa, đạo đức và nguồn lực của tôn giáo: Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã nhấn mạnh: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước”. Vận dụng các Nghị quyết, chỉ đạo của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, ngành quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo luôn khuyến khích, định hướng các tổ chức tôn giáo phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức và nguồn lực, tham gia vào các hoạt động an sinh xã hội, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh.
- Đảm bảo an ninh trật tự và ổn định xã hội: Thông qua công tác quản lý nhà nước, các hoạt động tôn giáo được thực hiện theo quy định của pháp luật, đồng thời, ngành đã góp phần quan trọng vào việc duy trì an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật, chia rẽ đại đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội.
III. Thành tựu nổi bật về đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Suốt hành trình phát triển, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, phản ánh sự tiến bộ và cam kết của Nhà nước:
- Hệ thống pháp luật đồng bộ, minh bạch: Đây là nền tảng vững chắc nhất. Từ Hiến pháp đến Luật, Pháp lệnh và các Nghị định, thông tư, hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thực thi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Các thủ tục hành chính liên quan đến đăng ký, hoạt động của các tổ chức tôn giáo được công khai, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và tổ chức.
- Đời sống tín ngưỡng, tôn giáo đa dạng, phong phú: 95% dân số Việt Nam có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, với 16 tôn giáo được công nhận, 43 tổ chức tôn giáo được cấp đăng ký hoạt động và công nhận tư cách pháp nhân (tính đến giữa năm 2025). Gần 28 triệu tín đồ, hơn 54 nghìn chức sắc, nhà tu hành, cùng hàng vạn cơ sở thờ tự đang hoạt động bình thường. Các lễ hội truyền thống, sự kiện tôn giáo lớn diễn ra thường xuyên, với quy mô ngày càng tăng, thể hiện rõ nét sự phát triển và sôi động của đời sống tâm linh.
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được thông qua tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XIV, ngày 18/11/2016
- Tôn trọng và bảo đảm mọi quyền lợi hợp pháp, cho phép các tôn giáo hoạt động tự do trong khuôn khổ pháp luật:
+ Phát triển về số lượng và hoạt động: Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được thể hiện rõ ràng qua sự phát triển về số lượng tổ chức tôn giáo, chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ. Các tôn giáo được tạo điều kiện thuận lợi để hoạt động theo Hiến chương, Điều lệ của mình trong khuôn khổ pháp luật Việt Nam. Đây là minh chứng cụ thể cho cam kết của Nhà nước trong việc tôn trọng sự đa dạng tôn giáo.
+ Cơ sở thờ tự và đào tạo: Hàng nghìn cơ sở thờ tự đã được khôi phục, trùng tu, và xây mới, đáp ứng nhu cầu tu học, hành lễ của tín đồ. Các cơ sở đào tạo chức sắc, nhà tu hành của các tôn giáo cũng được cấp phép hoạt động, thực hiện đào tạo theo quy định, đảm bảo nguồn nhân lực cho các tổ chức tôn giáo.
+ Xuất bản phẩm và truyền thông: Các xuất bản phẩm kinh sách, tài liệu tôn giáo được cấp phép và lưu hành rộng rãi, đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, học tập giáo lý của tín đồ. Nhiều tôn giáo còn xây dựng và duy trì vận hành trang thông tin báo chí, truyền thông riêng để truyền tải thông tin, giáo lý đến cộng đồng.
+ Hoạt động xã hội đa dạng: Các tổ chức tôn giáo và tín đồ tích cực tham gia vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ các hoạt động từ thiện, nhân đạo, an sinh xã hội, đến các phong trào bảo vệ môi trường, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh. Chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo trở thành một bộ phận không thể tách rời trong sự phát triển chung của đất nước, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
+ Tổ chức sự kiện, lễ hội quy mô lớn: Các sự kiện, lễ hội tôn giáo quan trọng được các ban, ngành, địa phương tạo điều kiện tổ chức với quy mô ngày càng lớn, thu hút sự tham gia của đông đảo tín đồ và Nhân dân. Đặc biệt, Việt Nam đã thành công trong việc tổ chức nhiều sự kiện tôn giáo quốc tế quan trọng, như: Đại lễ Vesak Liên hợp quốc (năm 2008, 2014, 2019, 2025), Đại hội đồng Liên đoàn Giám mục Á Châu (FABC), Lễ Kỷ niệm 100 năm Tin Lành truyền đến Việt Nam, Chương trình “Xuân yêu thương” do Hiệp hội Truyền giáo Billy Graham (BGEA) kết hợp với cộng đồng Tin Lành Việt Nam tổ chức, Hội Yến Diêu Trì Cung của đạo Cao Đài…, thể hiện thành tựu hội nhập của đất nước và vị thế ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Đại lễ Vesak Liên hợp quốc 2025 diễn ra từ ngày 06-08/5 tại TP.HCM với sự tham dự của hơn 2.700 đại biểu, trong đó có 1.300 đại biểu đến từ 85 quốc gia và vùng lãnh thổ
- Củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc: Các tôn giáo cùng tồn tại bình đẳng, hòa hợp trong một môi trường đa văn hóa, đa tôn giáo. Mối quan hệ giữa các tôn giáo với xã hội ngày càng gắn kết, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là sức mạnh nội sinh quan trọng cho sự phát triển của đất nước.
- Hợp tác và hội nhập quốc tế: Việt Nam chủ động tham gia các diễn đàn quốc tế về tôn giáo, tăng cường đối thoại song phương và đa phương, chia sẻ kinh nghiệm; nâng cấp quan hệ Việt Nam - Vatican lên Đại diện thường trú của Tòa thánh Vatican tại Việt Nam từ tháng 7/2023; cung cấp thông tin minh bạch về tình hình tôn giáo trong nước, bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, sai trái về tự do tôn giáo ở Việt Nam.
Các tổ chức, cá nhân tôn giáo được tạo điều kiện tham gia các hội nghị, diễn đàn, các nghi lễ tôn giáo, du học ở nước ngoài, thể hiện vai trò của tôn giáo ở Việt Nam và khẳng định chính sách nhất quán về tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, chính sách đối ngoại rộng mở của Việt Nam.
Chặng đường 70 năm Ban Tôn giáo Chính phủ và ngành quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo đã khẳng định vị thế và đóng góp không ngừng của Ban, ngành trong việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và duy trì ổn định chính trị - xã hội, góp phần kiến tạo một Việt Nam hòa bình, thịnh vượng và phát triển bền vững. Ban Tôn giáo Chính phủ và ngành sẽ tiếp tục là lực lượng tiên phong trong việc hiện thực hóa chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
Thuần Linh