Thông tin giá cả thị trường số 3/2016

03:44 PM 02/06/2016 |   Lượt xem: 2530 |   In bài viết | 

TIÊU ĐIỂM

 Ngành nông nghiệp ứng phó với BĐKH: Thích ứng để hưởng lợi

Hạn hán, lũ lụt thường xuyên xảy ra với mức độ ngày càng nghiêm trọng là hậu quả của hiện tượng biến đổi khí hậu đã được dự báo từ trước. Chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp để nâng cao giá trị và thích ứng với biến đổi khí hậu là một trong những vấn đề quan trọng nhằm tái cơ cấu lại ngành nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay.

Chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp

Theo dự báo của Trung tâm Khí tượng Thủy văn Trung ương, do ảnh hưởng El-Nino, mùa khô sẽ kéo dài đến hết tháng 8/2016, tình trạng hạn hán, thiếu nước khả năng kéo dài đến hết vụ hè - thu năm 2016 ở một số địa phương khu vực duyên hải Nam Trung bộ. Theo Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) để chuẩn bị cho vụ hè - thu 2016, các địa phương cần chú ý các giải pháp trước mắt như: Các vùng không đủ lượng nước cho sản xuất cần có phương án chuyển từ cơ cấu sản xuất 3 vụ sang 2 vụ, hoặc bố trí dịch chuyển khung thời vụ sản xuất cho phù hợp để tránh hạn; đẩy mạnh chuyển đổi những vùng thiếu nước sang cây trồng cạn ngắn ngày để tăng hiệu quả sản xuất và tiết kiệm nước tưới. Đặc biệt, vùng không có khả năng tưới tiêu thì chuyển đổi mùa vụ hoặc dừng sản xuất để tránh thiệt hại do hạn hán gây ra.

Về lâu dài, các địa phương đang sản xuất 3 vụ/năm như Bình Định, Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh Hòa cần tính toán hiệu quả sản xuất 3 vụ lúa bấp bênh chuyển đổi sang 2 lúa (vụ đông - xuân và hè - thu) an toàn hơn, hiệu quả hơn hoặc chuyển sang 1 hoặc 2 vụ rau, màu… có hiệu quả cao.

Đối với các tỉnh sản xuất 2 vụ lúa/năm như Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên tiếp tục rà soát nguồn nước, kênh tưới để điều chỉnh lịch xuống giống phù hợp với lịch tưới.

Đáng chú ý, các xã, huyện trung du, miền núi sử dụng nguồn nước các hồ đập chứa có dung tích vừa và nhỏ, khả năng sinh thủy đầu nguồn hạn chế thường đủ nước tưới trong vụ đông - xuân và nước tưới vụ hè - thu bấp bênh cần nghiên cứu chuyển dịch thời vụ xuống giống muộn hơn và sử dụng giống ngắn ngày để né tránh mưa cuối vụ hoặc chuyển đổi sang cây trồng cạn ngắn ngày có nhu cầu nước ít hơn.

Tạo mối liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm

Việc nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa còn góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Bởi việc chuyển đổi luân canh cây trồng sẽ cắt đứt nguồn lây lan dịch bệnh, tăng dinh dưỡng cho đất, góp phần gia tăng năng suất cho lúa ở những vụ sau. Đồng thời, luân canh màu trên nền đất lúa còn rút ngắn thời gian gieo trồng, đảm bảo cơ cấu và lịch thời vụ, giúp nông dân ứng phó với biến đổi khí hậu, mang lại hiệu quả cao. Đặc biệt, nhiều bà con đã chọn cây trồng, vật nuôi chuyển đổi phù hợp, có thị trường tiêu thụ, có lợi thế cạnh tranh nên đã mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, việc chuyển đổi vẫn còn một số khó khăn tồn tại. Đó là thị trường đầu ra nông sản không ổn định, quy mô sản xuất của nông dân nhỏ lẻ nên doanh nghiệp khó thu mua được sản phẩm chất lượng tốt với khối lượng lớn cùng một thời điểm… Bà Nguyễn Thị Kiều, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP. Cần Thơ, cho biết: Hiện tại, nông dân các quận, huyện trên địa bàn thành phố đã triển khai mô hình trồng mè trong vụ hè - thu 2016. Trồng mè cho hiệu quả kinh tế cao gấp 2 lần so với trồng lúa, nhưng điều quan trọng khi nhân rộng mô hình này cần có những định hướng đầu ra cho nông dân, thực hiện cơ giới hóa trong thu hoạch để tránh phụ thuộc lao động thủ công khi vào vụ chính...

Để việc chuyển đổi cây trồng được ổn định, bền vững ngoài việc quan tâm đẩy mạnh khuyến cáo nông dân chuyển đổi diện tích sản xuất lúa kém hiệu quả sang trồng các loại rau màu, cải tạo hệ thống thủy lợi cho phù hợp với mô hình chuyển đổi. Song song đó, xây dựng mối liên kết bền vững trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, nhất là công tác liên kết sản xuất giữa nông dân với doanh nghiệp, tìm đầu ra ổn định... để nông dân yên tâm sản xuất, gia tăng năng suất và lợi nhuận.

MUA GÌ

Bình Định: Giá quá thấp, diêm dân bỏ ruộng

Là nghề truyền thống, sinh kế bao đời nay của hàng ngàn hộ gia đình, nhưng từ đầu vụ sản xuất đến nay, nhiều diêm dân ở các địa phương trong tỉnh Bình Định phải bỏ đồng muối vì chi phí sản xuất tăng cao, trong khi giá bán thấp, càng làm càng thua lỗ.

Được mùa, mất giá

Những ngày cuối tháng 4, thời tiết ở Bình Định cực kỳ thuận lợi cho sản xuất muối. Nắng to, gió mạnh, độ ẩm thấp là điều mà người làm muối ưa thích. Tuy nhiên, thực tế trên ruộng muối thì không thuận lợi như vậy. Sản xuất muối được mùa lớn nhưng giá muối quá thấp đã làm cho đời sống của diêm dân gặp nhiều khó khăn. Theo bà con xóm 1, thôn Diêm Vân, xã Phước Thuận (huyện Tuy Phước), năm nay, tuy mới đầu vụ sản xuất nhưng giá muối đất tại ruộng chỉ ở mức 500 - 600 đồng/kg, muối trải bạt 1.000 đồng/kg, giảm tới 30% so với cùng kỳ các năm trước nên diêm dân ai cũng nản. Tiền bán muối chưa đủ tiền công chi phí cải tạo đất, thuê nhân công gánh muối. Toàn xã có 15 héc-ta ruộng muối với 86 hộ diêm dân. Tuy nhiên, do giá muối thấp, thu không đủ chi nên vụ này, diêm dân chỉ sản xuất có 4 héc-ta với 23 hộ tham gia, còn 11 héc-ta ruộng phải bỏ hoang. Nếu trong thời gian tới, giá muối không được cải thiện thì chắc chắn số hộ bỏ ruộng muối sẽ còn tăng.

Còn tại xã Cát Minh, hiện nay giá muối chỉ ở mức 400 - 500 đồng/kg đối với muối đất và khoảng 700 đồng/kg muối sạch. Trong khi chi phí sản xuất như công làm đất, công vận chuyển, bốc vác tăng hơn 30% so với năm trước. Do làm muối không có lãi nên diêm dân chỉ sản xuất 58/65 héc-ta. Đến thời điểm này, sản lượng muối thu hoạch được trên 300 tấn nhưng chưa tiêu thụ được vì thương lái hầu như không mua. Do vậy, đời sống của 600 hộ diêm dân ở địa phương gặp rất nhiều khó khăn, nguy cơ thiếu đói khi giáp hạt rất cao.
Thiếu đầu ra ổn định cho hạt muối

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bình Định, vụ sản xuất này, toàn tỉnh có gần 40/210 héc-ta ruộng muối bị bỏ hoang. “Được mùa, mất giá” từ lâu đã trở nên khá quen thuộc đối với người sản xuất ra hạt muối. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 2 nhà máy thu mua, chế biến muối là Công ty CP Muối và Thương mại miền Trung, Công ty CP Muối và Thực phẩm Bình Định nhưng hàng năm sản lượng thu mua muối trong tỉnh của 2 doanh nghiệp này rất thấp, nguyên liệu để phục vụ chế biến của các nhà máy là từ các tỉnh phía Nam do chất lượng muối tốt, giá lại rẻ. Do vậy, việc tiêu thụ muối nguyên liệu tại các đồng muối trên địa bàn tỉnh hoàn toàn phụ thuộc vào thương lái, hoặc diêm dân “tự bơi” bằng cách đưa đi bán lẻ hoặc đổi lúa…

Để giải quyết đầu ra cho hạt muối, UBND tỉnh Bình Định giao Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy hoạch lại vùng sản xuất và xây dựng chính sách khuyến khích phát triển nghề muối trên địa bàn tỉnh đến năm 2020. Chi cục Phát triển nông thôn đang xúc tiến việc xây dựng chính sách khuyến khích phát triển nghề muối trên địa bàn tỉnh để tham mưu cho lãnh đạo Sở. Theo đó, đối với các doanh nghiệp có dự án sản xuất, chế biến muối sẽ được hưởng chính sách khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn gồm: Miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước, hỗ trợ 20% tiền thuê đất, thuê mặt nước trong 5 năm đầu tiên. Bên cạnh đó, diêm dân tham gia liên kết với doanh nghiệp xây dựng vùng nguyên liệu muối được Nhà nước hỗ trợ bạt làm muối sạch; hỗ trợ 100% chi phí mua bạt cho hộ nghèo; hỗ trợ 70% chi phí mua bạt cho các hộ khác; diêm dân đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị trong sản xuất, chế biến muối được ngân sách nhà nước hỗ trợ lãi suất vốn vay. Đối với doanh nghiệp có dự án đầu tư nhà máy hoặc cơ sở chế biến muối được ngân sách hỗ trợ kinh phí để xây dựng cơ sở hạ tầng. Hỗ trợ chi phí vận chuyển từ đồng muối đến nhà máy, hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề, thông tin thị trường, xúc tiến thương mại.

Chủ trương, chính sách là vậy song hiện nay ít có doanh nghiệp tham gia sản xuất, chế biến muối. Nghề làm muối ở Bình Định lâu nay cũng khá bấp bênh do giá muối luôn biến động thất thường, đời sống diêm dân gặp nhiều khó khăn, nhưng bỏ ruộng muối thì bà con không biết làm gì để có thu nhập.

BÁN GÌ

Cà Mau: Cá đồng trước nguy cơ cạn kiệt

Tỉnh Cà Mau từng nổi tiếng một thời là “vương quốc” của cá đồng với sản lượng khoảng 70.000 tấn/năm, thế nhưng kể từ năm 2000 đến nay sản lượng cá đồng phát triển theo chiều hướng năm sau thấp hơn năm trước.

Cá đồng là cá nước ngọt, có rất nhiều loại như cá lóc, cá trê, cá rô, cá bổi, cá dầy, cá thát lát... có chất dinh dưỡng cao và là nguồn thực phẩm không thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày của người dân Cà Mau. Theo báo cáo từ cơ quan chức năng, nếu như sản lượng cá đồng năm 2015 đạt xấp xỉ 25.000 tấn thì vụ mùa năm 2016 chỉ đạt 17.000 tấn, giảm gần 8.000 tấn so với cùng kỳ. Dự báo, sản lượng cá đồng ở Cà Mau sẽ còn tiếp tục giảm, thậm chí còn có nguy cơ bị mai một sau 10 năm nữa. Bên cạnh đó, nếu như vào thời điểm của năm 2000, diện tích nuôi cá đồng của Cà Mau là 300.000 héc-ta thì nay chỉ còn 150.000 héc-ta. Nguyên nhân được cho là do mở rộng diện tích nuôi trồng thủy sản, tiếp đến là công tác quản lý nguồn lợi cá đồng của địa phương lỏng lẻo dẫn tới tình trạng săn bắt cá đồng vô tội vạ. Nhiều hành vi săn bắt cá đồng bị cấm như săn bắt, mua bán cá non, dùng điện rà dưới ao đầm làm cho cá bị tận diệt... nhưng lại đang phát triển gần như công khai. Thời tiết cũng phát triển theo chiều hướng nắng nhiều, mưa ít cũng làm cho cá đồng không phát triển được.

Để bảo tồn và phát triển nguồn lợi cá đồng, tỉnh Cà Mau đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ. Theo đó, tỉnh quy hoạch phát triển cá đồng để năm 2020 đạt sản lượng ít nhất 40.000 tấn trở lên. Đồng thời, khuyến khích người dân nuôi cá đồng, vùng nuôi tập trung vùng ngọt hóa U Minh Hạ bao gồm các huyện U Minh, Trần Văn Thời và Thới Bình. Ngoài ra, tỉnh cũng tăng cường công tác quản lý, nghiêm cấm mọi hành vi bắt cá bằng điện, vận chuyển, mua bán cá non vì đây là nguồn cá giống để thả nuôi hàng năm; khuyến khích hai hình thức nuôi, đó là nuôi cá kết hợp với trồng rừng tràm và nuôi cá kết hợp với trồng lúa.

Đồng bằng sông Cửu Long: Trái cây tăng giá, đắt hàng

Từ đầu năm đến nay, do ảnh hưởng của nắng hạn, xâm nhập mặn kéo dài làm cho năng suất và sản lượng trái cây ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) sụt giảm. Cũng chính vì vậy, giá trái cây ở ĐBSCL luôn giữ ổn định ở mức cao.

Ông Nguyễn Văn Thực, Phó Chủ nhiệm Hợp tác xã Xoài cát Hòa Lộc, xã Hòa Hưng, huyện Cái Bè cho biết, hợp tác xã đang mua xoài với giá khoảng 50.000 – 60.000 đồng/kg nhưng không đủ hàng để đưa đi xuất khẩu sang Nhật. Không chỉ xoài cát Hòa Lộc mà các loại xoài khác ở ĐBSCL cũng tăng giá. Ông Nguyễn Văn Đệ, Hợp tác xã xoài An Lộc, xã Hòa Tân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh cho biết, mấy ngày nay, nhiều thương lái đến mua xoài nhưng hợp tác xã không đủ xoài để bán. Xoài hút hàng nên giá cũng tăng theo. Hiện xoài Cát Chu loại 1 được thương lái thu mua với giá bán buôn là 15.000 đồng/kg, tăng khoảng 6.000 đồng/kg so với thời điểm này năm ngoái. Tuy nhiên, sản phẩm này khi đến tay người tiêu dùng, giá bán đã tăng lên từ 20.000 – 28.000 đồng/kg. Nhiều chủ sạp trái cây ở chợ Xuân Khánh, An Bình và các cửa hàng chuyên bán trái cây cho khách du lịch ở phường Tân An, An Cư, quận Ninh Kiều TP. Cần Thơ cho biết, các loại trái cây đến thời điểm này tiêu thụ khá ổn định. Hiện nay, giá các loại trái cây vùng ĐBSCL đang có xu hướng tăng. Tại tỉnh Bến Tre, bưởi da xanh được bán với giá khoảng từ 53.000 – 55.000 đồng/kg, tăng 5.000 đồng/kg so với tháng trước. Giá dừa khô, dừa Xiêm xanh khoảng 120.000 đồng/chục (12 trái). Dừa nạo, dừa uống nước hiện tại trên 100.000 đồng/chục. Bà con thu lãi khá nên rất phấn khởi.

Hạn mặn đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất của nông dân ĐBSCL, làm giảm năng suất và sản lượng cây ăn trái ở khu vực này. Những tín hiệu tốt từ thị trường trái cây như hiện nay như những giọt nước mát lành, làm dịu đi cái mặn và sự nóng bức trong những ngày đầu hè. Bà con nhà vườn vui vì đã có thể bù đắp lại những thiệt hại về sản lượng.

LƯU Ý CẢNH BÁO

Giải pháp chống hạn cho cây trồng

Theo dự báo của Trung tâm Khí tượng thủy văn Trung ương, lượng mưa mùa khô năm 2016 thấp hơn trung bình các năm trước khoảng 40 - 50%, do đó sẽ xảy ra khô hạn nghiêm trọng trên diện rộng.

Nhằm giúp bà con nông dân nắm bắt những kiến thức mới trong việc hạn chế, khắc phục ảnh hưởng của tình hình khô hạn đối với cây trồng, Trung tâm Khuyến nông quốc gia đã đưa ra một số giải pháp sau:
Giải pháp quản lý và sử dụng nguồn nước hợp lý

- Bà con nông dân cần có ý thức tự giác sử dụng và bảo vệ nguồn nước hợp lý, chống lãng phí thất thoát nước trong sinh hoạt cũng như trong sản xuất nông nghiệp.

- Áp dụng các biện pháp tưới tiết kiệm nước: Trong điều kiện nguồn nước thiếu, nhất là những vùng thường hay bị hạn thì không nên trồng lúa nước mà chuyển đổi thành loại cây yêu cầu nước ít hơn, gọi chung là cây trồng cạn. Để sử dụng nước tưới hiệu quả đối với cây trồng cạn, nhiều nơi ở nước ta đã áp dụng công nghệ tưới tiên tiến như tưới phun, tưới nhỏ giọt…

- Hệ thống thủy lợi: Thất thoát nước từ các hệ thống thủy lợi là rất lớn. để giảm thất thoát nước cần đổi mới công nghệ tưới, củng cố tổ chức quản lý nhằm phát huy vai trò của người dân tham gia đầu tư xây dựng, nâng cấp, sửa chữa công trình… Kịp thời tu sửa hoặc báo ngay cho các cơ quan có trách nhiệm gần nhất, khi phát hiện các kênh mương nội đồng, mương chính… bị rò rỉ nước, thất thoát nguồn nước.
Các giải pháp canh tác

Đối với cây lúa nước: Một số diện tích đất sản xuất lúa có nguy cơ cao thiếu nước vào thời điểm gần cuối vụ hè thu, vì thế cần ưu tiên sử dụng các giống chịu hạn mà vẫn cho năng suất lúa ổn định.

Để cung cấp nguồn nước phù hợp, tiết kiệm trong canh tác lúa, cần tuân thủ tuyệt đối về khâu quản lý nước theo quy trình “1 phải 5 giảm”. Ruộng trồng lúa chỉ cần ngập nước trong giai đoạn lúa non để ém cỏ và trong giai đoạn lúa trỗ để kết hạt tốt. Vào các giai đoạn khác có thể áp dụng biện pháp tưới “ngập khô xen kẽ”, trong bất kỳ giai đoạn nào, lớp nước ngập tối đa là 5cm. Biện pháp tiết kiệm nước được thực hiện trong 3 giai đoạn (trước trỗ, lúa trỗ và sau trỗ). Giai đoạn thứ nhất, sau khi sạ từ 3 - 5 ngày đưa nước vào ruộng 1 - 3 cm và tiếp tục giữ đến 20 ngày sau sạ cho mực nước lên 3 - 5 cm. Giai đoạn này nước là nhu cầu thiết yếu để cây lúa phát triển và hạn chế sự mọc mầm của cỏ dại. Giai đoạn 2, sau khi lúa đẻ nhánh kín hàng giữ nước trong ruộng từ bằng mặt đất cho đến thấp hơn mặt đất 15cm. Khi mực nước xuống thấp hơn mặt đất 15cm thì mới lấy nước vào ngập tối đa là 5cm, tiếp tục để nước hạ xuống dưới 15cm thì mới lấy nước vào tiếp. Giai đoạn 3, cho nước vào 1 - 3cm để bón phân đón đòng. Khi lúa trỗ lấy nước tối đa không quá 5cm và giữ nước trong vòng khoảng 10 ngày sau trỗ. Tiếp tục điều tiết ngập khô xen kẽ tương tự giai đoạn 2. Tháo nước trước thu hoạch 5 - 7 ngày để thúc đẩy quá trình chín và dễ ứng dụng cơ giới hóa vào thu hoạch.

Đối với các loại cây trồng ngắn ngày: Nhóm cây nông nghiệp ngắn ngày như hoa màu, gia vị, lạc, ngô, dưa hấu, bí… tùy theo điều kiện canh tác nông nghiệp từng vùng mà bà nông dân có thể chủ động luân canh gối vụ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng cho hợp lý. Đặc biệt nên áp dụng màng phủ nông nghiệp (trải bạt) trong canh tác đối với các cây mang lại hiệu quả kinh tế cao như dưa hấu, ớt, khổ qua… Sử dụng màng phủ nông nghiệp ngoài tác dụng chính là tiết kiệm nước còn mang lại các lợi ích khác như hạn chế thất thoát phân bón, sự phát triển của cỏ dại.

Đối với các loại cây công nghiệp dài ngày như cà phê, hồ tiêu, xoài: Cần phải xác định nhu cầu lượng nước của từng đối tượng cây trồng, từng giai đoạn cây trồng và có các phương pháp tưới hợp lý để tránh sự lãng phí nước. Nếu có điều kiện kinh tế thì áp dụng phương pháp tưới nhỏ giọt nên cung cấp nước cho cây trồng một cách hiệu quả và tiết kiệm. Nên tạo bồn tủ gốc để tưới, làm cỏ cục bộ phá váng để tránh hiện tượng mao dẫn gây ra hiện tượng bốc hơi nước.

NHẬN ĐỊNH THỊ TRƯỜNG

Trồng khóm trên đất nhiễm phèn, mặn ở Hậu Giang: Được mùa, được giá

Thời điểm này, nông dân vùng chuyên canh trồng khóm (dứa) Cầu Đúc ở các xã ven của huyện Long Mỹ và thành phố Vị Thanh, đang vào mùa thu hoạch nghịch vụ. Bà con nông dân rất phấn khởi vì liên tiếp 3 năm nay đều được mùa, được giá.

Khóm là 1 trong 10 mặt hàng nông sản chủ lực của Hậu Giang đã có nhãn hiệu và bán chạy trên thị trường. Tại nhiều xã ven của huyện Long Mỹ, khóm Cầu Đúc chiếm 50% diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Bởi loại cây này chịu được nồng độ phèn, mặn cao nên nhiều địa phương đã chọn là cây trồng chủ lực. Nhiều xã đã thành lập hợp tác xã trồng khóm và phối hợp với các cơ quan chức năng xây dựng thương hiệu khóm Cầu Đúc. Hiện nay, hầu hết người trồng khóm đều áp dụng phương pháp xử lý khóm cho trái nghịch vụ và chia ra 4 đợt thu hoạch trong năm, thay vì tập trung vào một mùa thuận như kiểu trồng truyền thống. Nhờ rải vụ mà khóm luôn bán được giá cao gấp 2 - 3 lần so với vụ thuận vào tháng 4 và 5. Theo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hậu Giang, giai đoạn 2016 - 2020 là phải xây dựng vùng nguyên liệu chuyên canh khóm có diện tích từ 2.000 – 2.500 héc-ta. Với tình hình sản xuất và tiêu thụ khóm thuận lợi như hiện nay, nhiều khả năng diện tích khóm sẽ được nông dân mở rộng lên 3.000 héc-ta. Bởi vì bà con ở những khu vực không thể canh tác lúa vì bị nhiễm mặn hay những mảnh vườn tạp, vườn cây kém hiệu quả sẽ chuyển sang trồng khóm.

Bến Tre: Sầu riêng, măng cụt giảm năng suất vì hạn mặn

Sát mùa thu hoạch nhưng các loại cây ăn trái đặc trưng của tỉnh Bến Tre như sầu riêng, măng cụt... năng suất rất thấp bởi ảnh hưởng hạn mặn nhiều tháng qua.

Trong đó, sầu riêng và măng cụt là 2 loại bị ảnh hưởng nhiều nhất. Theo nhà vườn, khá nhiều vùng sầu riêng đã bị cháy lá và rụng trái non, bởi đặc tính của sầu riêng là chịu mặn kém. Mặc dù ở một số vườn, khi có thông tin hạn mặn năm nay sẽ ảnh hưởng nặng đến địa phương, bà con đã phải bao gốc toàn bộ sầu riêng trong vườn. Nhờ vậy mà hạn chế được tình trạng rụng trái non nhưng năng suất thu hoạch rất thấp. Tuy nhiên, với măng cụt thì không biết cách gì cứu. Và điều ảnh hưởng trước mắt khiến hầu hết các vườn cây đều ra hoa chậm và kém nhiều so với mùa trước. Thậm chí, tại nhiều vườn đã xuất hiện tình trạng nền đất có nước mặn đóng thành váng muối. Một nông dân trồng cây kiểng tại xã Phú Mỹ, huyện Mỏ Cày Bắc cho biết: “Vườn cây trái và vườn ươm gần 2.000 mét vuông của tôi chết trắng trong đợt mặn này. Cả vườn ước tính có khoảng hơn 10.000 cây trồng và cây non tưới nước sông đều bị rụng trái, cháy lá. Mỗi cây ươm tôi bán 9.000 - 10.000 đồng, thiệt hại vì vậy lên đến hàng trăm triệu đồng”. Ở đây, hầu hết các hộ dân lân cận đều lâm vào tình trạng này, nhất là ở các vườn chuyên cung cấp cây non. Trên thực tế, các loại cây như: Sầu riêng, chôm chôm, bưởi, cam, dừa non… đều rất nhạy mặn. Vì vậy, khi các ngành chức năng dự báo tình trạng hạn mặn kéo dài, các hộ dân đều rất lo lắng. Hiện các hộ có điều kiện trong vùng thì mua nước ngọt hoặc thuê thợ đào giếng nên đỡ thiệt hại. Riêng các vườn ít kinh phí nông dân đành chọn giải pháp tình thế là tưới bằng nước sông. Điều này cũng có nghĩa là họ đã chấp nhận mất trắng cả vụ thu hoạch.

CHUYỂN ĐỘNG THỊ TRƯỜNG

Phú Yên: Hiệu quả từ mô hình trồng ngô trên đất lúa

Biến đổi khí hậu diễn biến ngày càng khó lường nên việc chuyển đổi cây trồng cạn trên đất lúa là điều cần thiết. Trước tình hình này, tỉnh Phú Yên đã chọn cây ngô để chuyển đổi.
Từ một dự án thử nghiệm

Nhằm hỗ trợ nông dân chuyển đổi mô hình trồng trọt, tỉnh Phú Yên đã ký kết với Tập đoàn In Vivo (Pháp) và Cty TNHH Kinh doanh XNK Vạn Thắng triển khai dự án phát triển vùng nguyên liệu ngô trên đất lúa. Dự án được triển khai tại 2 huyện Phú Hòa và Tây Hòa với diện tích 27 héc-ta trong vụ đông xuân 2015 - 2016.

Trong đó, xã Hòa Tân Tây (huyện Tây Hòa) có 7 héc-ta ruộng đang sản xuất 1 vụ lúa/năm chuyển sang trồng 2 giống ngô lai NK67 và NK7328 của Cty Syngenta Việt Nam. Trọng điểm của dự án là mô hình sản xuất thử nghiệm trên đất lúa đang sản xuất 2 vụ lúa/năm tại xã Hòa Quang Nam (huyện Phú Hòa) với 2 giống ngô lai CP111 và CP333 của Công ty Hạt giống CP Việt Nam với diện tích 20 héc-ta. Theo tính toán ban đầu, so với sản xuất lúa trên cùng chân đất, chi phí đầu tư cho 1 héc-ta ngô cao hơn sản xuất lúa là 3,8 triệu đồng/héc-ta, nhất là chi phí về giống (cao hơn 400.000 đồng/héc-ta). Tuy nhiên, năng suất ngô đạt bình quân 10 tấn tươi/héc-ta, do đó mức thu của cây ngô cao đến hơn 25,3 triệu đồng/héc-ta, trong khi đó trồng lúa chỉ thu được có 16 triệu đồng/héc-ta, như vậy cây ngô cho thu nhập cao hơn cây lúa 9,3 triệu đồng/héc-ta.

...đến việc triển khai trên diện rộng

Ngay từ đầu vụ, Công ty Kinh doanh XNK Vạn Thắng đã cung cấp cho nông dân tham gia dự án các loại vật tư nông nghiệp như giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật… Đồng thời phối hợp với Sở NN-PTNT, Trung tâm Khuyến nông Phú Yên tổ chức 4 lớp tập huấn kỹ thuật canh tác cây ngô cho nông dân và cán bộ phụ trách nông nghiệp các xã tham gia dự án. Sau đó cùng nông dân bám đồng hướng dẫn cách làm theo cách cầm tay chỉ việc. Qua đó, bà con nông dân đã thấy rằng, nếu áp dụng cơ giới trong sản xuất ngô ở các khâu làm đất, gieo hạt, bón phân, rải thuốc, xới phá váng, vun gốc và thu hoạch, thì chi phí sản xuất sẽ giảm nhiều hơn, mức thu nhập của nông dân sẽ tăng cao hơn.

Trong thời gian tới, để nhân rộng mô hình chuyển đổi trồng ngô trên đất lúa, công ty đưa ra 3 mô hình thực hiện: Một là nông dân và HTX liên kết, HTX chịu trách nhiệm tổ chức sản xuất, Công ty Vạn Thắng bao tiêu sản phẩm. Hai là nông dân hợp tác cùng công ty theo hình thức cổ đông, nông dân góp đất, trực tiếp sản xuất, sau đó được chia lãi theo thỏa thuận. Ba là nông dân cho công ty thuê đất với thời hạn theo thỏa thuận để đơn vị này chủ động sản xuất. Bà con không lo đầu ra của sản phẩm vì đã có Tập đoàn In Vivo (Pháp) bao tiêu thông qua Công ty Vạn Thắng.

Từ kết quả khả quan ban đầu của dự án, hiện tỉnh Phú Yên đang xây dựng quy hoạch các vùng sản xuất ngô tập trung, có khả năng cơ giới hóa sản xuất. Đồng thời tiến tới việc cải tạo hệ thống mương tưới, mương tiêu nội đồng phù hợp trong sản xuất cây ngô. Các giống ngô lai được trồng trong mô hình đều có tiềm năng năng suất cao. Đặc biệt giống CP333 ngắn ngày, chịu hạn rất phù hợp với điều kiện biến đổi khí hậu.
Trong lộ trình thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp, đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh Phú Yên sẽ có từ 5.000 – 7.000 héc-ta đất lúa bấp bênh được chuyển sang sản xuất cây ngô lai. Đây là cũng giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu được ngành nông nghiệp và các cơ quan liên quan đánh giá cao.

CHỐNG BUÔN LẬU MUA BÁN GIAN LẬN

Bình Phước: Đẩy mạnh chống buôn lậu tuyến biên giới

Xác định công tác chống buôn lậu tuyến biên giới là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của năm 2016, Ban chỉ đạo chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả của tỉnh Bình Phước (BCĐ 389) đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm đấu tranh, ngăn chặn tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại.

Trên tuyến biên giới của 3 tỉnh Campuchia tiếp giáp với Bình Phước, các đầu nậu người Campuchia thường dùng xe loại 4 chỗ, xe ôtô bán tải, xe cải tiến vào sâu trong nội địa Campuchia mua hàng. Sau đó đem về tập kết ở một số điểm trên biên giới bên phần lãnh thổ Campuchia, chờ thời cơ thuận lợi bán cho người dân biên giới Việt Nam. Một số người dân Việt Nam lợi dụng đường mòn, lối mở tự phát để “ôm” hàng, mang vác sâu vào nội địa để bán lại cho một số đầu nậu. các đầu nậu này lại có một đội ngũ chân rết đưa về các tỉnh, thành phố lân cận bán, thu lợi bất chính. Thông thường, các đối tượng buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng thường phân tán hàng nhỏ lẻ hoặc bày bán hàng nhập lậu, hàng giả đan xen lẫn hàng thật để gây khó khăn cho các lực lượng chức năng trong kiểm tra, kiểm soát. Các mặt hàng nhập lậu chủ yếu gồm: Thuốc lá điếu, đường, lâm sản, trâu, bò, nước giải khát đóng hộp, rượu ngoại đóng chai và một số mặt hàng tiêu dùng nhỏ lẻ khác tùy theo từng thời điểm.

Trước tình trạng này, đội kiểm tra liên ngành chống buôn lậu khu vực biên giới cùng UBND các xã biên giới đã tăng cường tuyên truyền, kiểm tra, kiểm soát, xử lý ngăn chặn các hành vi xuất - nhập lậu hàng hóa qua biên giới. Tại các cửa khẩu, các lực lượng công an cửa khẩu, hải quan, kiểm dịch, kiểm tra chất lượng hàng hóa... và lực lượng chức năng các tỉnh nước bạn đã phối hợp, hợp tác tốt trong bảo vệ biên giới. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát xuất - nhập khẩu, xuất - nhập cảnh, giữ gìn an ninh trật tự khu vực biên giới cửa khẩu nhưng vẫn tạo điều kiện tốt cho giao lưu, trao đổi hàng hóa qua cửa khẩu. Lực lượng chức năng tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường, tập trung kiểm tra các mặt hàng như: Mỹ phẩm, thực phẩm chức năng, dược phẩm, gia súc, gia cầm, thuốc lá nhập lậu...; Các mặt hàng có dấu hiệu vi phạm về sở hữu trí tuệ, hàng kém chất lượng, không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, hàng quá hạn sử dụng, hàng chưa qua kiểm dịch... Kiểm tra, kiểm soát, phát hiện kịp thời các hành vi lợi dụng kẽ hở trong chính sách để chiếm đoạt tiền của nhà nước thông qua hoàn thuế giá trị gia tăng.

Chi cục Quản lý thị trường tỉnh đã phối hợp các cơ quan báo, đài thường xuyên đưa tin, bài tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước trong công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả. Đồng thời, đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, không sử dụng hàng giả, hàng nhập lậu, hàng hóa không rõ nguồn gốc. Đối với đồng bào dân tộc ở các địa phương giáp biên, tăng cường tuyên truyền để bà con không tham gia vận chuyển, không tiếp tay bảo kê cho hoạt động sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng…

HÀNG VIỆT

Hà Giang: Tích cực đưa hàng Việt về miền núi

Là một tỉnh miền núi còn nhiều khó khăn, bà con nhiều năm không được tiếp cận với hàng hóa Việt chính hãng, có chất lượng, Hà Giang luôn chú trọng tổ chức các phiên chợ đưa hàng Việt về nông thôn để hàng Việt “phủ sóng” nhanh hơn đến bà con vùng sâu, vùng xa.

Nhu cầu dùng hàng Việt là rất lớn

Sở Công Thương Hà Giang cho biết, cuối năm 2015, Sở Công Thương Hà Giang đã phối hợp với các huyện vùng cao phía Bắc tổ chức 4 phiên chợ “đưa hàng Việt về nông thôn miền núi” tại trung tâm các huyện. Các phiên chợ đã thu hút đông đảo bà con nhân dân trên địa bàn đến tham quan, mua sắm. Hàng hóa được đưa đến phiên chợ là hàng được sản xuất bởi các doanh nghiệp (DN) trong nước, có đầy đủ nhãn hiệu, nguồn gốc xuất xứ, đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm... Các mặt hàng tham gia phiên chợ gồm hàng may mặc; đồ dùng học tập; đồ gia dụng; hàng điện, điện tử như quạt điện, ti vi, máy tính, thiết bị viễn thông; thực phẩm như nước mắm, hàng khô, bánh kẹo, sữa...

Theo Trung tâm Khuyến công Xúc tiến Công Thương tỉnh Hà Giang, để các phiên chợ được tổ chức thành công, Trung tâm đã phối hợp chặt chẽ với các đơn vị như Phòng Công Thương, Trung tâm Văn hóa, Điện lực, Công an, Đội Quản lý thị trường các huyện tổ chức phiên chợ xây dựng kế hoạch, bố trí lực lượng tuần tra, kiểm soát, không để xảy ra trộm cắp, mất an ninh trật tự. Cùng với đó, công tác kiểm tra, giám sát hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng tại mỗi phiên chợ được Đội Quản lý thị trường các huyện tổ chức chặt chẽ, đúng quy định. Mỗi phiên chợ cũng được Trung tâm Văn hóa các huyện lồng ghép các buổi biểu diễn nghệ thuật, giao lưu văn nghệ và chiếu phim lưu động để trước mắt là thu hút người dân đến xem, sau đó là tham quan và mua sắm hàng hóa. Các DN khi tham gia phiên chợ cũng được hỗ trợ chi phí tuyên truyền, quảng cáo; cơ sở hạ tầng phục vụ phiên chợ và chi phí thuê, dàn dựng gian hàng tiêu chuẩn…

Cần có điểm bán hàng Việt Nam cố định phục vụ bà con vùng sâu

Trao đổi với phóng viên báo Công Thương, ông Mai Văn Sướng – Phó Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Hà Giang cho biết, không chỉ riêng người dân vùng đồng bằng, thành thị mà ở vùng cao, vùng sâu cũng có nhu cầu sử dụng hàng Việt Nam. Tuy nhiên, điều thiệt thòi với người dân vùng cao đó là việc tiếp cận với hàng Việt Nam là rất khó khăn vì đường giao thông khó khăn, chi phí vận chuyển cao khiến DN không mấy mặn mà đưa hàng về khu vực này. Chưa kể, do Hà Giang nằm giáp Trung Quốc nên phần lớn người dân bao năm qua đã dùng hàng của Trung Quốc. Chính vì vậy, việc tổ chức đưa các phiên chợ hàng Việt về khu vực vùng sâu, vùng xa, biên giới là rất cần thiết. Một phần là cung cấp hàng Việt Nam chính hãng đến tay người tiêu dùng, phần là dần thay đổi tư duy của người dân không dùng hàng ngoại nhập giá rẻ. Nhiều phiên chợ đưa hàng Việt về nông thôn sẽ được tiếp tục tổ chức trong thời gian tới để người dân có cơ hội tiếp cận hàng Việt.

Ông Mai Văn Sướng cũng khẳng định, phiên chợ đưa hàng Việt về nông thôn chỉ là giải pháp tạm thời. Thực hiện Đề án Phát triển thị trường trong nước gắn với cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, Sở Công Thương tỉnh Hà Giang đã và đang xây dựng các điểm bán hàng Việt Nam cố định để DN có được các điểm bán hàng để đưa hàng hóa vào kinh doanh, bà con có địa chỉ mua sắm hàng chính hãng. Điểm bán hàng Việt Nam cố định sẽ được ưu tiên xây dựng ở các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa với mục đích đưa hàng Việt đến được với người dân khu vực này nhanh chóng và thuận lợi nhất.

Trung bình, mỗi phiên chợ đưa hàng Việt về nông thôn Hà Giang thu hút trên 2.000 lượt người dân đến tham quan và mua hàng. Mỗi phiên chợ được tổ chức trong 4 ngày, gồm 25 gian hàng của trên 10 DN tham gia.

(Thông tin do Báo Công Thương và Cổng Thông tin điện tử UBDT phối hợp thực hiện)