Giải pháp phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số nước ta thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa

03:17 AM 12/10/2010 |   Lượt xem: 5574 |   In bài viết | 

Với đặc điểm là khu vực dân tộc thiểu số, miền núi, có tỷ lệ người dân tộc thiểu số chiếm lớn nên việc sử dụng cán bộ người dân tộc thiểu số làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể, chính quyền các cấp là một yêu cầu tất yếu, khách quan. Xác định tầm quan trọng đó về công tác cán bộ, trong những năm qua, Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban Nhân dân các tỉnh vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ luôn quan tâm chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương chú trọng đến việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng người dân tộc thiểu số làm việc tại các cơ quan, đơn vị ở địa phương. Nhờ đó, số lượng, chất lượng cán bộ công chức người dân tộc thiểu số ở các địa phương này dần tăng lên, tình trạng hẫng hụt nguồn cán bộ người dân tộc thiểu số đã từng bước được khắc phục, chính quyền cơ sở ngày càng được củng cố và hoàn thiện, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số đang dần được trẻ hoá, có trình độ chuyên môn, đa dạng về thành phần dân tộc, cán bộ nữ người dân tộc thiểu số tăng lên nhiều so với trứơc đây. Tất cả những kết quả đạt được đó đã góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế-xã hội, ổn định an ninh-chính trị trên địa bàn.

Thực trạng công tác bố trí, sử dụng cán bộ người dân tộc thiểu số, chúng ta nhận thấy có một số ưu điểm.

Công tác quy hoạch cán bộ luôn được thực hiện thường xuyên. Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số đã được quy hoạch một bước căn bản, có tính kế thừa, rộng khắp và dần trẻ hoá đội ngũ.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số được thực hiện tốt, bước đầu đã gắn với quy hoạch, kế hoạch đào tạo cho từng chức danh. Việc lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức được thực hiện hằng năm. Công tác tuyển chọn các em học sinh người dân tộc thiểu số để cử đi đào tạo đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp tại các trường trong cả nước được chú trọng.

Công tác bố trí, sử dụng các em học sinh, sinh viên người dân tộc thiểu số sau tốt nghiệp luôn được quan tâm thực hiện tốt. Ngay từ khâu tuyển chọn ban đầu để cử đi đào tạo, các tỉnh đã có kế hoạch bố trí công tác cho các em sau này khi ra trường. Đa phần các em sau khi tốt nghiệp đều trở về địa phương công tác và được tiếp nhận, bố trí công việc đúng với chuyên ngành đào tạo. Một số đơn vị, địa phương còn chủ động hợp đồng với các em ngay sau khi ra trường vào làm việc. Đa số các em đều phát huy được năng lực, trình độ và kiến thức đã được học tập, nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết công việc. Nhiều người đã được quy hoạch, bố trí, bổ nhiệm vào các chức danh chủ chốt ở các đơn vị, sở, ngành, địa phương.

Trong chính sách đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ: các tỉnh đã ban hành và tổ chức thực hiện tốt, có hiệu quả một số chính sách về đào tạo, bố trí, sử dụng con em người dân tộc thiểu số. Hằng năm, tỉnh đều dành một nguồn kinh phí để hỗ trợ cho các em học sinh, sinh viên người dân tộc thiểu số đang học tại các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề trong cả nước.

Bên cạnh những ưu điểm nêu trên vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập:

Một số cấp uỷ, lãnh đạo cơ quan, đơn vị chưa thấy hết tầm quan trọng của công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.

Công tác quy hoạch cán bộ người dân tộc thiểu số còn lúng túng, chưa đồng bộ, chưa có cơ cấu cán bộ hợp lý.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu số còn bị động và không theo quy hoạch, thiếu kế hoạch thực hiện lâu dài.

Việc sử dụng, bố trí việc làm cho các em sau khi ra trường còn lúng túng và bị động. Việc bố trí, sử dụng một số trường hợp chưa phù hợp với trình độ, năng lực của các em được đào tạo.

Chế độ đãi ngộ các em học sinh người dân tộc thiểu số trong đào tạo và bố trí, sử dụng sau khi ra trường còn bất cấp, chưa bắt kịp với sự phát triển của nền kinh tế.

Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vùng dân tộc thiểu số được Đảng, Nhà nước quan tâm đầu tư phát triển kinh tế-xã hội; trong đó tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần; chuyển đổi cơ cấu kinh tế nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh của từng vùng.

Thực hiện chính sách dân tộc nhằm đảm bảo bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ giữa các dân tộc.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về công tác dân tộc xác định: “Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số cho từng vùng, từng dân tộc. Trong những năm trước mắt cần tăng cường lực lượng cán bộ có năng lực, phẩm chất tốt đến công tác ở những vùng dân tộc, nhất là các địa bàn xung yếu về chính trị, an ninh, quốc phòng… Nghiên cứu sửa đổi tiêu chuẩn tuyển dụng, bổ nhiệm và các cơ chế, chính sách đãi ngộ cán bộ vùng dân tộc thiểu số và miền núi”.

Trước thực trạng việc sử dụng học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề tại các khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ và yêu cầu của thời kỳ hội nhập và phát triển cần có các giải pháp trong phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số một cách toàn diện.
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền các cấp.

Trong thời kỳ hội nhập và phát triển, yêu cầu sử dụng lao động chất lượng cao là vấn đề rất bức thiết. Để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, kém phát triển, việc sử dụng lao động có chất lượng cao là một giải pháp quan trọng, cơ bản, lâu dài.

Cấp uỷ, chính quyền các cấp cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất, đồng bộ về việc sử dụng nguồn nhân lực đã qua đào tạo. Phải coi đây là nguồn tài sản quý giá của quốc gia; không được để lãng phí. Cần có sự quán triệt, thống nhất từ nhận thức đến tổ chức thực hiện.

Xác định tiêu chuẩn cán bộ, công chức, viên chức, cán bộ khoa học, kỹ thuật để làm cơ sở tuyển chọn, bố trí sử dụng.

Nhà nước đã có quy định về tiêu chuẩn cán bộ, công chức, viên chức, cán bộ khoa học, kỹ thuật. Tuy nhiên, hiện nay khi nước ta đã hội nhập với thế giới, cần bổ sung về tiêu chuẩn đối với cán bộ, công chức, viên chức, cán bộ khoa học kỹ thuật ở các cấp, các ngành, ở các lĩnh vực khác nhau. Ngoài tiêu chuẩn chung cần có chính sách đặc thù cho người dân tộc thiểu số.

Quy hoạch bố trí, sử dụng nguồn nhân lực đã qua đào tạo.

Quy hoạch bố trí, sử dụng nguồn nhân lực đã qua đào tạo không để lãng phí nhân lực, vật lực, chất xám là vấn đề lớn ở nước ta hiện nay. Sử dụng tốt nhân lực đã qua đào tạo sẽ làm chuyển biến mạnh mẽ công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Chương trình phát triển kinh tế-xã hội ở từng vùng, từng tỉnh phải gắn với quy hoạch, kế hoạch bố trí, sử dụng nguồn nhân lực dân tộc thiểu số đã qua đào tạo trên địa bàn.

Nhà nước đã và đang tiếp tục đầu tư cho các chương trình phát triển kinh tế-xã hội ở các vùng dân tộc. Mục tiêu của các chương trình phát triển kinh tế-xã hội đó không chỉ mang lại lợi ích vật chất, tạo nên các công trình, các cơ sở sản xuất mà còn sử dụng nguồn nhân lực tại chỗ.

Củng cố các cơ sở đào tạo, dạy nghề.
Quy hoạch các trường đào tạo ở từng khu vực; Nhà nước đầu tư nâng cấp các trường đào tạo hiện có cho phù hợp với yêu cầu và quy mô đào tạo trong giai đoạn mới; Nhà nước hỗ trợ vốn để xây dựng các trung tâm dạy nghề cấp huyện; tăng cường trang thiết bị dạy học như: phương tiện nghe nhìn, đồ dùng trực quan, tài liệu tham khảo; tăng chỉ tiêu giảng viên cho các trường đào tạo, dạy nghề. Xây dựng đội ngũ giáo viên có chất lượng của các trường đào tạo, dạy nghề ở các vùng dân tộc; đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, dạy nghề theo hướng gắn với thực tiễn sản xuất và tiến bộ của khoa học, công nghệ; tranh thủ các nguồn đầu tư ở trong nước và nước ngoài để củng cố cơ sở vật chất, nâng cao năng lực đào tạo của các trường đào tạo, dạy nghề. Các trường đào tạo, dạy nghề xây dựng quy hoạch đào tạo phải gắn với nhu cầu sử dụng của các cơ quan, các tổ chức, các cơ sở sản xuất trên địa bàn ở khu vực, tỉnh.

Tăng cường công tác tuyên truyền về việc sử dụng nguồn nhân lực đã qua đào tạo ở các địa phương vùng dân tộc còn có những khó khăn nhất định trong việc tiếp cận với các thông tin về đào tạo, dạy nghề. Vì vậy cần tăng cường tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia phát triển giáo dục-đào tạo, dạy nghề, nâng cao tính chủ động của chính quyền cơ sở.

Đối với học sinh, sinh viên có thể thông qua giáo dục hướng nghiệp để các em tìm hiểu, lựa chọn nghề nghiệp.

Việc tuyên truyền nhằm cung cấp những thông tin cần thiết về ngành nghề cần tuyển dụng, trách nhiệm, nghĩa vụ của người lao động đã qua đào tạo, những cơ quan, tổ chức, cơ sở sản xuất cần tuyển dụng, các thủ tục tuyển dụng…

Hợp tác với nước ngoài trong việc sử dụng nguồn nhân lực đã qua đào tạo.

Hiện nay, chúng ta đã gia nhập WTO, là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại quốc tế. Quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực và thế giới ngày càng được mở rộng.

Trong những năm qua, chúng ta đã có nhiều cán bộ khoa học, công nhân kỹ thuật đi làm việc ở nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Nguồn lao động này đã mang về cho đất nước một khoản ngoại tệ nhất định.

Có chính sách, chế độ thu hút nguồn nhân lực là người dân tộc thiểu số đã qua đào tạo về công tác ở vùng dân tộc.

Cơ quan hành chính các cấp, đặc biệt là ở cấp cơ sở, cần chuẩn hoá đối với các chức danh cán bộ. Hiện nay, số cán bộ ở cơ sở có trình độ trung cấp còn chiếm tỷ lệ thấp; số còn lại có trình độ trung học cơ sở, trung học phổ thông chiếm tỷ lệ cao. Để chuẩn hoá đội ngũ cán bộ cơ sở cần có quy hoạch đào tạo và bố trí sử dụng. Vấn đề cần giải quyết là có cơ chế, chính sách để đưa học sinh, sinh viên đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng về bố trí vào các vị trí công tác ở xã. Đồng thời có chế độ phụ cấp thoả đáng để bù đắp những khó khăn trong điều kiện làm việc ở cơ sở.

Nhà nước cần có quy định đối với các đơn vị sự nghiệp, cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp trên địa bàn vùng dân tộc về việc tuyển dụng, tiếp nhận học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số tốt nghiệp các trường đào tạo, dạy nghề và chế độ để tạo điều kiện cho con em đồng bào dân tộc thiểu số có điều kiện đóng góp xây dựng quê hương, đất nước.

Hiện thực hoá quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số.

Nhà nước cần bổ sung chính sách sử dụng nguồn nhân lực là người dân tộc thiểu số đã qua đào tạo.

Riêng về vấn đề đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, để thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hoá-hiện đại hoá khu vực miền núi và dân tộc thiểu số, chúng ta cần chú ý đến giáo dục đại học và sau đại học, vì chính nó sẽ đào tạo ra nguồn nhân lực có trình độ cao, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá.

Trong thời gian qua, giáo dục nói chung, giáo dục đại học và sau đại học nói riêng đã gắng tạo điều kiện tốt nhất có thể, đã đề ra nhiều chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với con em đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, quá trình thực thi các chính sách đó đang bộc lộ nhiều yếu kém, một số chính sách chỉ mang tính giải quyết tình thế là chính, chưa đáp ứng yêu cầu hình thành chiến lược lâu dài và ổn định, đủ khả năng giải quyết triệt để vấn đề.

Chúng ta đang thực hiện một chương trình đào tạo chung cho cả nước, điều đó có những mặt tích cực và cũng bộc lộ những hạn chế. Chung về chương trình sẽ đào tạo ra những con người có thể tham gia vào hoạt động sản xuất và đời sống xã hội ở những môi trường khác nhau, dễ tổ chức dạy học, lại dễ đánh giá, kiểm tra v.v.. nhưng việc đánh giá khách quan nhất phải là hiệu quả công việc khi sinh viên ra trường tham gia vào các hoạt động thực tiễn. Do điều kiện tự nhiên của từng vùng đã làm cho con người có tư chất, lối sống, cách làm việc khác nhau. Nếu không tính đến những đặc thù tự nhiên của từng vùng để đào tạo ra những con người tương xứng thì khi vào hoạt động thực tiễn hiệu quả sẽ không cao. Đối với sinh viên người miền núi và dân tộc nói chung, do môi trường xã hội ít được tiếp xúc những công nghệ hiện đại, khi còn học ở bậc phổ thông thì chỉ dừng lại ở học lý thuyết là chủ yếu, mặt bằng kiến thức phổ thông còn thấp hơn so với đồng bằng và thành thị, cho nên khi đào tạo đối tượng này, nếu không tăng thời gian thực hành, thực tiễn thì hiệu quả sẽ rất khiêm tốn.

Từ những thực tế trên, để đáp ứng được yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực của khu vực miền núi và dân tộc, cần mạnh dạn thay đổi cả về chính sách và chương trình giáo dục đối với đối tượng sinh viên ở khu vực này.

Có thể lựa chọn chương trình đào tạo cho học sinh miền núi và dân tộc theo hai khuynh hướng: 1. Thành lập một Học viện hoặc một trường đại học đa ngành, dành riêng để đào tạo sinh viên dân tộc thiểu số. Trong Học viện hay trường đại học đa ngành này, ngoài chương trình chung (phần cứng) thống nhất trong cả nước, sẽ có những ngành tự chọn, môn học tự chọn mang tính đặc thù cho từng khu vực miền núi (Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ) và dân tộc (Tày, Nùng, Thái, Mông, Êđê…), thậm chí lựa chọn những chuyên đề đáp ứng yêu cầu đối với từng tiểu vùng cụ thể. Sự lựa chọn này dựa trên cơ sở kết hợp nghiên cứu vùng, miền với đào tạo; mở ra hướng đào tạo có sự kết hợp giữa truyền thống và những vấn đề mới, giữa cái chung với cái riêng, đồng thời xây dựng được chiến lược nghiên cứu và phát triển về các tiểu vùng và nhanh chóng ứng dụng những thành tựu nghiên cứu vào đời sống thực tiễn ở từng khu vực. 2. Trên cơ sở các trường đại học, cao đẳng hiện nay, trong tất cả các ngành có đào tạo sinh viên miền núi và dân tộc, cần lựa chọn cả về chương trình và phương pháp đào tạo riêng cho loại đối tượng này. Ngoài phần kiến thức cơ bản và phần kiến thức chung, sinh viên sẽ được học một số kiến thức chuyên ngành phù hợp với địa phương mình và sẽ được đầu tư vào học các môn cơ bản và cơ sở nhiều hơn để giải quyết những chênh lệch về mặt bằng kiến thức cơ bản lúc thi đầu vào, nhất là đầu tư thời gian vào thực hành, thí nghiệm để tăng năng lực thực tiễn của sinh viên.

Giáo dục bậc cao là trực tiếp đào tạo ra những con người kiến thiết và đưa đất nước phát triển. Khu vực miền núi và dân tộc ở nước ta đang rất cần có những con người hoạt động có hiệu quả để vùng này xóa được đói, giảm được nghèo và thu hẹp dần khoảng cách phát triển so với các vùng khác. để có con người thể đáp ứng được những đòi hỏi đó, phải trông chờ vào sự đổi mới của nền giáo dục trong thời gian tới và trông chờ vào sự quan tâm của các nhà khoa học, các nhà đầu tư và nhất là của Đảng và Nhà nước.

TS. Hoàng Hữu Bình (Nguồn: Tạp chí Dân tộc - Số 117/2010)