Việt Nam và vấn đề chống biến đổi khí hậu ở Đông Nam Á
09:44 AM 10/12/2015 | Lượt xem: 4163 In bài viết |Thế giới đang phải đối mặt với
những nguy cơ lớn do biến đổi khí hậu và sự ấm lên của Trái Đất được xác định là
xuất phát từ chính con người. Với vị trí địa lý và các điều kiện tự nhiên đặc
thù, Đông Nam Á trở thành khu vực dễ bị tổn thương bởi những tác động của biến
đổi khí hậu.
Hội nghị lần thứ 21 Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP21)
đang diễn ra tại thủ đô Paris của Pháp là cơ hội để các quốc gia có thể đạt được
những thảo thuận nhằm cứu Trái Đất. Trong hơn một thập kỷ qua, khu vực Đông Nam
Á đã hứng chịu những thảm họa thiên nhiên chưa từng có trong lịch sử, như: trận
động đất lịch sử năm 2004 ở Ấn Độ Dương, gây sóng thần, làm chết hàng chục ngàn
người, xóa sổ hàng loạt làng mạc và đô thị ven biển; cơn bão Nargis năm 2008; lũ
lụt ở Thái Lan năm 2011; bão Washi ở Philippines; siêu bão Haiyan năm 2013… Với
sự gia tăng tần suất và cường độ, các thảm họa thiên tai đã tàn phá nặng nề, gây
thiệt hại lớn về người và kinh tế của khu vực, gây trở ngại cho tiến trình xây
dựng một cộng đồng ASEAN phát triển bền vững.
Đứng trước những thảm họa toàn cầu, đe dọa không chỉ tương lai của các dân tộc ở
Đông Nam Á, đã đến lúc, chính phủ các quốc gia trong khu vực và trên thế giới
phải chung tay trong nỗ lực giảm lượng phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính từ
hoạt động của con người dẫn đến biến đổi khí hậu. Giờ đây, chống biến đổi khí
hậu, từng bước khắc phục và đẩy lùi nguy cơ do biến đổi khí hậu đem lại, tất cả
các ngành các cấp, từ địa phương đến quốc gia cũng như giữa các quốc gia và khu
vực cần phải gác lại các dị biệt để hợp tác chặt chẽ với nhau vì mục tiêu chung
Các nhà lãnh đạo ASEAN đã ra tuyên bố về ứng phó với biến đổi khí hậu vào các
năm 2007, 2009, 2010 và 2014, trong đó thể hiện mối quan tâm lớn của ASEAN về
các vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu và thể hiện rõ ASEAN đồng lòng hướng
tới quá trình đàm phán tại COP. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 27 diễn ra
hồi tháng 11 vừa qua ở Kuala Lumpur (Malaysia), ASEAN đã thông qua “Tuyên bố
ASEAN Post-2015 về tính bền vững của môi trường và khí hậu”, khẳng định nỗ lực
của các nước trong khu vực đối phó với thách thức chung phi truyền thống. Những
cam kết đã đạt được sẽ tạo nền tảng cho việc thực hiện các thỏa thuận đó, dự
kiến sẽ có hiệu lực vào năm 2020.
Cũng như các nước khác trong cộng đồng toàn cầu, các nước thành viên ASEAN đang
phải tìm các giải pháp hiệu quả để thích ứng với tác động của biến đổi khí hậu.
Hiện phần lớn các nước ASEAN đã thiết lập kế hoạch thích ứng quốc gia (NAP) dựa
trên các nghiên cứu ở mỗi nước.
Một trong những tác động của biến đổi khí hậu đó là mực nước biển dâng cao,
không chỉ đe dọa đến sự tồn tại của các đảo quốc, mà còn gây nhiều hậu quả
nghiêm trọng đến các vùng ven biển của những nước như Việt Nam.
Các nhà khoa học dự đoán là đến cuối thế kỷ XXI, tức đến năm 2100, mực nước biển
có thể dâng cao 1 mét. Trong trường hợp đó, 4,4% diện tích của Việt Nam sẽ bị
ngập vĩnh viễn, 6 triệu người dân sẽ bị ảnh hưởng. Mực nước biển dâng cao 1 mét
cũng sẽ ảnh hưởng đến các cơ sở hạ tầng, sản xuất công nghiệp và nông nghiệp của
Việt Nam
Để thích ứng, Việt Nam đã xây dựng Báo cáo “Đóng góp dự kiến do quốc gia tự
quyết định về vấn đề biến đổi khí hậu” (INDC) và đang tích cực thực hiện báo cáo
này, thể hiện nội lực của mình trong công cuộc ứng phó với biến đổi khí hậu.
Phát biểu tại buổi tọa đàm với chủ đề: “Đẩy nhanh việc triển khai các biện pháp
ứng phó sau COP21 và học hỏi kinh nghiệm các nước trong lĩnh vực biến đổi khí
hậu”, do Liên minh châu Âu (EU) tổ chức ngày 8/12 tại Pháp đúng vào dịp diễn ra
Hội nghị COP21, ông Nguyễn Khắc Hiếu, Phó Cục trưởng Cục Khí tượng Thủy văn và
Biến đổi khí hậu, Phó trưởng Ban chỉ đạo thực hiện Công ước khí hậu và Nghị định
thư Kyoto thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường, cho biết: ”Việt Nam cam kết giảm 8%
lượng phát thải khí nhà kính vào năm 2030 và có thể giảm đến 25% trong trường
hợp nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chính cũng như việc chuyển giao công
nghệ của quốc tế. Về thích ứng với biến đổi khí hậu, Việt Nam sẽ chủ động ứng
phó với thiên tai, ứng phó với nước biển dâng, ngập lụt ở các vùng ven biển và
đô thị, tăng cường giám sát khí hậu, đảm bảo an sinh xã hội”.
Để thực hiện được mục tiêu tham vọng trên, Việt Nam đã xây dựng các phương án
giảm phát thải khí nhà kính trong những lĩnh vực chính như: năng lượng, giao
thông vận tải, nông nghiệp, lâm nghiệp, sử dụng đất và quản lý chất thải.
Trong lĩnh vực năng lượng vốn được coi là nguồn phát thải chính, các biện pháp
của Việt Nam tập trung vào việc sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng, sử
dụng năng lượng tái tạo.
Trong giao thông, Việt Nam hướng đến việc tăng sử dụng các phương tiện giao
thông công cộng, giảm phương tiện cá nhân tại các thành phố lớn, chuyển đổi sử
dụng các loại nhiên liệu ít phát thải như sử dụng các loại nhiên liệu mới, xăng
sinh học…
Trong lĩnh vực lâm nghiệp, Việt Nam xây dựng những phương án tăng khả năng hấp
thụ của rừng thông qua việc bảo tồn rừng bền vững, trồng rừng ngập mặn ở ven
biển để làm tăng bể chứa carbon, đồng thời cũng làm tăng khả năng phòng chống
thiên tai khi xảy ra bão và lũ lụt ở các vùng cửa sông và ven biển.
Việt Nam cũng đã cam kết đóng góp 1 triệu USD vào quỹ liên quan tới sáng kiến
ứng phó biến đổi khí hậu. Với những khoản trợ giúp thuộc chương trình chống biến
đổi khí hậu mà Việt Nam nhận được từ đối tác nước ngoài, bước đầu đã giúp nông
dân (nhóm đối tượng dễ bị tác động do biến đổi khí hậu và nước biển dâng) biết
cách sản xuất khi môi trường thay đổi và tăng thêm thu nhập./.
Theo: Vũ Cân (Nguồn: CPV)