Kho báu của buôn làng Tây Nguyên
10:48 AM 01/04/2014 | Lượt xem: 1778 In bài viết |Một ngày đầu Xuân Giáp Ngọ, trong ngôi nhà sàn truyền thống của đồng bào Ê Đê ở buôn Tul A, xã Ea We, huyện Buôn Đôn (Đắc Lắc), một lần nữa, tôi được trò chuyện và nghe nghệ nhân Điểu Klung hát kể sử thi M’nông (Ót N’rông). Nghệ nhân Điểu Klung, sinh ngày 15-1-1941, tại buôn Pu Prâng, xã Quảng Trực, huyện Đắc R’lấp, tỉnh Đắc Lắc (nay thuộc huyện Tuy Đức, tỉnh Đắc Nông). Ông là con út trong gia đình có truyền thống văn hóa và hiếu học nhất vùng Quảng Trực. Bố đẻ của ông là Điểu Tông, thuộc và diễn xướng được 6 sử thi. Nhờ vậy sau này, anh cả Điểu Knứt, anh thứ Điểu Kâu, chị kế Thị Doanh và Điểu Klung đều trở thành những người có uy tín, những nghệ nhân tiêu biểu của đồng bào dân tộc M’nông. Đặc biệt, cố nghệ nhân Điểu Kâu (mất ngày 28-8-2008), nghệ nhân Thị Doanh và nghệ nhân Điểu Klung là những người có đóng góp xuất sắc vào sự thành công của Dự án “Điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản sử thi Tây Nguyên”. Trong đó, Điểu Klung là người thuộc nhiều sử thi nhất Tây Nguyên. Năm 2014 này, đã ở vào tuổi 73, nghệ nhân vẫn nhớ và có thể hát kể được 120 sử thi M’nông.
Khi Điểu Klung còn là cậu bé 5-6 tuổi, buôn làng Pu Prâng
hiếm khi vắng lời Ót N’rông. Không phải chỉ dịp lễ hội bà con buôn Pu Prâng mới
hát kể sử thi, mà mỗi khi có khách, gia đình, dòng họ có việc, già trẻ, gái trai
lại quây quần bên bếp lửa, trên nương rẫy, khi đi săn thú trong rừng, bắt cá
dưới suối, là người già lại cất lời hát kể sử thi để mọi người cùng nghe. Sử thi
của người M’nông chỉ không được hát khi trong nhà có đám tang, hoặc có người
chết chưa bỏ mả (chưa đủ 3 năm). Sử thi M’nông cũng cấm kỵ không được diễn xướng
một mình, mà phải có người nghe mới được hát kể. Điểu Klung cho biết, từ nhỏ mặc
dù chưa biết chữ nhưng do đam mê sử thi, nên ông thường theo những người già,
chú bác trong dòng họ để được nghe hát kể sử thi, kể lai lịch dòng họ và kể luật
tục người M’nông. Nghe đi, nghe lại nhiều lần, qua nhiều đêm, nhiều ngày, từ năm
này sang năm khác, nên sử thi và luật tục dần dà ngấm sâu vào trí nhớ của nghệ
nhân. Để rồi khi trưởng thành, nghệ nhân đã hóa thân được vào tất cả các nhân
vật của hơn một trăm sử thi mà ông đã thuộc nằm lòng. Do có kiến thức và những
hiểu biết văn hóa nhất định, nên năm 1967, ông bị chính quyền Sài Gòn bắt làm
nhân viên văn hóa, đến năm 1973, khi Quảng Trực giải phóng, ông đã trình diện
chính quyền cách mạng và kể từ đó tích cực tham gia nhiều hoạt động văn hóa, xã
hội tại địa phương.
Từ năm 1995, khi tỉnh Đắc Lắc tiến hành điều tra, sưu tầm sử thi M’nông, Điểu
Klung là một trong những người đầu tiên tham gia. Ông là người kể chính để Sở
Văn hóa – Thể thao và Du lịch Đắc Lắc xuất bản tác phẩm sử thi “Kể dòng con cháu
mẹ Chêp” năm 2003. Đây được xác định là tác phẩm sử thi gốc, với nội dung kể về
các nhân vật xuất hiện trong chuỗi sử thi Ót N’rông. Trước đó, Điểu Klung sưu
tầm, anh trai Điểu Kâu dịch thuật cuốn Luật tục M’nông, được Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia xuất bản năm 1998. Từ năm 2001 đến 2007, khi Trung tâm Khoa học Xã
hội và Nhân văn Quốc gia (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam), phối
hợp các tỉnh Tây Nguyên và giáp Tây Nguyên thực hiện Dự án “Điều tra, sưu tầm,
bảo quản, biên dịch và xuất bản sử thi Tây Nguyên”, nghệ nhân Điểu Klung cùng
anh trai Điểu Kâu, chị gái Thị Doanh và cháu gái Thị Mai (con gái của nghệ nhân
Điểu Kâu) tham gia rất tích cực. Với vốn Ót N’rong sẵn có của mình, nghệ nhân đã
hát kể phục vụ công tác ghi âm, biên dịch được 50 tác phẩm sử thi M’nông.
Đến nay, các tác phẩm sử thi M’nông do nghệ nhân hát kể sưu tầm đã xuất bản được
27 tác phẩm, đang chuẩn bị xuất bản 23 tác phẩm. Trong số đã xuất bản, tiêu biểu
là các tác phẩm: Lêng Kon Rung bị bắt cóc bán; Cướp máy kéo chỉ của Ndu Kon
Mach; Tiăng bán tượng gỗ; Thuốc cá ở hồ bầu trời, mặt trăng; Bing kon Tooch cướp
Leeng; Bán chiêng Yau cho Bon Tiăng; Leeng cướp dê nga kon suh; Tiăng lấy ché
con mèo; Diăng Nghe tự tử; Leeng lấy trống đồng Bông Yang Kon The; Tiăng đi lấy
sừng trâu; Thần cưa răng Kon Rung,… Trung bình mỗi sử thi ghi âm khoảng 10 băng
(loại 90 phút); khi dịch ra song ngữ M’nông – Việt có dung lượng trên dưới 1.000
trang. Tiêu biểu về độ dài là tác phẩm Thuốc cá ở hồ bầu trời, mặt trăng, dịch
và in 2 tập song ngữ M’nông – Việt, mỗi tập dày 500 trang.
Nghệ nhân Điểu Klung tự hào khi không gian diễn xướng sử thi Tây Nguyên đang
được đề nghị UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, và Ót
N’rông của người M’nông được đánh giá là những sử thi có độ dài nhất của thế
giới. Cũng chính vì sử thi M’nông có độ dài như vậy, nên những năm gần đây, khi
tuổi cao, sức yếu, trí nhớ giảm sút, nghệ nhân phải tranh thủ hằng đêm ghi chép
tóm tắt những sử thi M’nông mà ông còn nhớ lời ra những trang giấy, để cất giữ
cẩn thận. Hôm chúng tôi tới nhà, nghệ nhân đã ghi tóm tắt đến tác phẩm thứ 112.
Ông trăn trở: “Bây giờ mình còn phải ghi chép 8 sử thi nữa mới hết những tác
phẩm mình đã thuộc. Ước nguyện của mình là cùng với cháu gái Thị Mai ghi âm, ghi
chép lại toàn bộ những tác phẩm sử thi M’nông mà mình thuộc, mà đến nay chưa sưu
tầm được, để đến khi mình đi theo anh trai Điểu Kâu về trời, sử thi M’nông vẫn
sống mãi với buôn làng Tây Nguyên”.
Với những đóng góp của mình, năm 2003, nghệ nhân Điểu Klung được Hội Văn nghệ
dân gian Việt Nam tặng Bằng công nhận Danh hiệu Nghệ nhân dân gian, được tặng
Huy chương vì sự nghiệp Văn học dân gian; năm 2006 được tặng Kỷ niệm chương Vì
sự nghiệp khoa học xã hội. Bây giờ ở buôn Tul A, xã Ea Wel, nghệ nhân Điểu Klung
còn là người có uy tín, chi hội trưởng người cao tuổi.
(Theo www.qdnd.vn)